TÂM THỨC HỌC 4

Bởi có nhiều ngộ nhận về những quyền năng tâm linh, có lẽ những điều sau:
– phân tích các quyền năng thường thấy là thông nhãn (clairvoyance), thông nhĩ (clairaudience) và cảm thị (psychometry)
– xác định vị trí đúng đắn của chúng trên đường phát triển
– hiểu rõ sự phân biệt giữa quyền năng cao và quyền năng thấp
sẽ có giá trị rõ rệt và cho phép chúng ta tiến bước với hiểu biết nhiều hơn và chắc chắn hơn.

Tổng Quát
Trước khi vào chuyện có một ý chính cần được nêu ra, ấy là nằm đằng sau sự phát triển của con người là sự phát triển tính bao hàm (inclusiveness). Tính bao hàm này là một đặc điểm của linh hồn thiêng liêng, và có khuynh hướng đi tới sự tổng hợp. Sách xưa nhắc đến tính này bằng câu 'Con người là tiểu vũ trụ', muốn nói trong con người có chứa mọi điều của đại vũ trụ bên ngoài, hữu hình cũng như vô hình. Tây phương cũng có câu với ý tương tự 'Con người, hãy tự biết mình (rồi sẽ biết được vũ trụ)'.
Nhìn theo mặt tiến hóa thì đó là vòng xoắn ốc hướng thượng, ở mỗi bước phát triển linh hồn lập lại các chặng đường đã qua trước khi bước lên nấc cao hơn, nói về hình thể vật chất thì đặc điểm này biểu lộ qua việc phôi thai của người trước hết có hình cây cỏ, rồi qua giai đoạn có mang như cá và sau cùng mới có hình dạng của người; nói về tinh thần thì những khả năng của chặng phát triển trước sẽ được đem vào chặng sau, là một phần còn hoài không mất đi trong cuộc tiến hóa của người. Những đặc tính riêng biệt của các loài khác trong thiên nhiên trở thành đặc tính của người, được chuyển hóa thành các khả năng của ta. Sau đó tới phiên con người nằm trong đại vũ trụ rộng lớn hơn, là một phần của hệ thống này và ta phải càng lúc càng có ý thức về nó. Ta cần giữ ý niệm Bao Hàm này khi tìm hiểu những quyền năng tâm linh và ảnh hưởng của chúng.
Con người đã trải qua mẫu chủng Lemuria với những quyền năng của thú tính, Atlantis với những quyền năng  tâm linh đặc biệt, có trí tuệ bắt đầu làm chủ phàm ngã. Nay sang mẫu chủng Aryan, hai loại quyền năng trên tàn lụi dần mà con người chưa phát triển những quyền năng khác cao hơn. Vì lý do đó, phản ứng thường thấy ở khắp nơi là thành phần trí thức lên án thông nhãn, thông nhĩ là giả mạo, vì không hiểu.
Ngụ ý ở đây là có hai loại quyền năng ẩn tàng trong con người, những loại thấp có thể được tái khám phá nếu muốn, và loại khác cao hơn sẽ được phát triển. Hai loại ấy là:
1. Những quyền năng và khả năng cổ xưa mà con người đã phát triển và sở hữu trong các thời đại qua, được vùi sâu trong tiềm thức, chìm dưới mức thức tỉnh hiện giờ hầu cho anh phát triển trí tuệ để chiến thắng và chế ngự phàm ngã.
2.  Những quyền năng và khả năng thuộc về linh hồn đã thức tỉnh. Đây là những quyền năng lớn mà đức Chúa hàm ý, khi ngài hứa với đệ tử là ngày kia, họ sẽ thực hiện được nhiều việc lớn lao hơn ngài đã làm.
Ta nên nhớ rằng tất cả quyền năng tâm linh là quyền năng của Đại Hồn mà trong thời gian và không gian, một số là biểu hiệu của tâm thức thú hay linh hồn của thú, và một số khác là biểu hiệu của linh hồn người, một số khác nữa là của linh hồn thiêng liêng. Thí dụ thì bản năng bầy, hợp đoàn của thú là sự phát triển trong giai đoạn phôi thai của điều mà về sau với trí tuệ phát triển ta gọi là tâm thức nhóm. Nhận xét này có thể áp dụng cho tất cả những bản năng khác. Kế đó quyền năng tâm linh bậc thấp có sẵn nơi thú tính là dấu hiệu còn phôi thai về khả năng của linh hồn.
Một khi nắm bắt được ý này thì thái độ của người hoài nghi và ai không tin tưởng sẽ thay đổi, và họ sẽ thấy (khi nghiên cứu về những quyền năng thấp) là với hiểu biết và sử dụng đúng đắn, chúng có thể là cách để có một số trạng thái tâm thức, nhưng không thay thể được cho những quyền năng cao. Có hai điều cần nói thêm về các quyền năng thấp ấy.

A. Phân Tích
Trước tiên, chúng không phải là quyền năng cao nhất có thể có, và cũng không phải là loại quyền năng mà con người sẽ nhắm tới việc phát triển vào lúc này. Thực ra giai đoạn ấy đã có ở điểm thấp nhất trong cuộc tiến hóa của giai đoạn làm người và do vậy liên kết mật thiết với loài thú, cũng như nó sẽ tới ở mức cao nhất mà khi đó quyền năng cao hơn sẽ tự động bao trùm cái thấp hơn. Quyền năng tâm linh thấp thấy chung nơi loài thú, và tất cả những giống dân nào còn thấp trên thang tiến hóa của người. 
Sự thực là vậy, tuy nhiên vẫn có người tin việc có những quyền năng ấy là dấu hiệu của việc hoặc tiến xa về mặt tinh thần, hoặc là sở hữu điều hiếm có và độc đáo làm người ta nổi bật, ai có khả năng ấy được xem như có thiên tài, khôn ngoan sáng suốt hơn người bình thường, có thể khuyên bảo và hướng dẫn người khác. Thái độ này được biểu lộ qua việc người như vậy có thể tụ họp khối lượng đông đảo người khác quanh họ để nói chuyện, cùng việc công chúng sẵn lòng nghe họ, trả tiền để có được đặc ân và lợi ích của việc biểu diễn khả năng và nghe lời khuyên.
Sự việc có khó khăn còn là do người ta khám phá trở lại những khả năng thú tính này khi quyền năng bao trùm của họ tiến xa hơn, họ bắt đầu mở rộng tâm thức thế nên quá khứ cũng như là tương lai được mang vào khoảng nhận thức của họ. Bởi họ có ước vọng về điều cao thượng, về huyền học (mysticism) khác với chuyện tâm linh (psychism), họ diễn giải một số điều cảm nhận được bằng thông nhãn, như là chuyện cho riêng cá nhân họ; những gì họ thấy hay nghe là của riêng họ. Như thế khi thấy một hình tư tưởng của đức Chúa hay của Chân sư, người ta xem đó như là dấu hiệu muốn nói họ được hầu chuyện trực tiếp và có tiếp xúc riêng tư với những đấng cao cả. Vì vậy họ bước vào thế giới ảo ảnh và huyễn tưởng mà cuối cùng họ phải tách mình ra khỏi đó, dù sẽ gặp nhiều khó khăn khi làm vậy.

● Thần Giao Cách Cảm
Lằn phân ranh giữa những tâm thức của thú, người và thiêng liêng không có phân biệt rõ rệt, và khi ý thức điều này thì ta hiểu được sự phức tạp của đề tài, và khó khăn trong việc học của chúng ta. Tính phức tạp này có thể được trình bầy qua việc tìm hiểu chữ 'thần giao cách cảm, telepathy'. Theo quan niệm thông thường nó nói tới hai quyền năng:
- Linh tính ghi nhận một tình thế nào đó, lời kêu gọi hay ấn tượng đi vào người nơi huyệt đan điền. Người ta không kiểm soát được quyền năng này, và cũng không phải là trí não chủ ý đón nhận thông điệp cố tình hướng tới nó, mà chỉ có việc giữ cho tâm trí ở trong một trạng thái hay điều kiện liên kết với người được xem là gửi thông điệp. Trong mười lần thì chín lần thông điệp là lời kêu cầu, phát ra và sinh kết quả mà không cần người nhận có khả năng nào để nhận nó. Thí dụ như người mẹ ý thức con mình đang bị nguy hiểm.
- Một hình thức thông nhãn, cho phép người ta thấy điều gì che dấu, chẳng hạn những con số của lá bài đặt úp trên bàn.

Trong khi đó, tính thần giao cách cảm đúng nghĩa là việc liên lạc trực tiếp trong trí não, từ cái trí này đến cái trí kia, và ở mức biểu lộ cao hơn nữa là sự truyền ý từ linh hồn này sang linh hồn kia, dùng cái trí như là vật sắp xếp sự truyền ý, như trong trường hợp nhận được hứng khởi. Chuyện lý thú đáng  nói và nhiều ý nghĩa là trong việc ghi nhận thần giao cách cảm đích thực, quyền năng thấp có thể được nâng lên sử dụng ở mức ý thức cao hơn. Có ba trường hợp hay thấy là:
- Có người chỉ ghi nhận trong trí bằng thần giao cách cảm thông tin đến từ cái trí khác. Việc ghi nhận cũng như việc liên lạc diễn ra không lời và không hình thái. Nó chỉ giản dị là người ta nhận biết, và hiểu biết được truyền đi thành hình bên trong tâm thức mà không qua giai đoạn trung gian nào. Đây là truyền giao cách cảm không lời.
- Người khác lập tức đem hiểu biết được truyền đi xuống thấp hơn thành hình dạng; họ sẽ thấy được thông điệp, chữ hay thông tin hiện ra trước mắt như viết tay hoặc chữ in như nó được đặt trên màn ảnh xi nê lớn, nhìn thấy trong đầu.
- Người khác nữa hạ hiểu biết xuống thấp thành hình khiến họ nghe được.
Với hai trường hợp sau, con người thật dùng quyền năng ẩn tàng của mình, nâng nó cao hết mức của anh, và đặt nó dưới quyền sử dụng của linh hồn. Sự khác biệt giữa điều này và việc biểu diễn quyền năng thông nhãn, thông nhĩ là ở trường hợp này có sự kiểm soát và thông hiểu hoàn toàn; trong những trường hợp khác các quyền năng thấp tự động được sử dụng, không có kiểm soát, người ta bận tâm với chuyện không quan trọng, và người sử dụng nó không hiểu việc chút nào. Ta ghi nhận là trường hợp cao nhất không tạo ra hình thể, hai trường hợp sau dùng khả năng thấp thì có tạo ra hình thể; đây là hai điều đáng chú ý khi ta đi sâu thêm về sau.

● Cảm Thị (psychometry còn dịch là tâm kế).
Đây là quan năng căn bản không thuộc về bản năng, linh tính, cảm quan thông thường. Tính cảm thị nói cho sát là khả năng làm việc và tiếp xúc được với linh hồn của nhóm cao mà linh hồn của nhóm thấp hơn hướng về, hoặc với linh hồn trong bất cứ hình thể nào có ước vọng như thế. Trong thực tế thì quan năng này liên quan đến tính bao trùm (inclusiveness) nhiều hay ít. Nó nói tới sự liên hệ giữa chó hay những thú nhà khác đối với người, giữa một người với những người khác, của người chí nguyện với linh hồn của họ, vị thầy và nhóm của họ. Khi khả năng cảm thị được áp dụng vào thế giới hữu hình gồm vật cụ thể như khoáng chất, vật sở hữu và những món vật chất khác - thí dụ vậy - nó cho kết quả thần diệu, khiến người ta kiếm tiền dễ dàng bằng cách biểu diễn khả năng. Dù ta hướng về loài thấp hoặc hướng về thế giới cao hơn để tiếp xúc với ai sinh hoạt ở đó thì quan năng vẫn chỉ là một.
Có thể phân loại người dùng những quyền năng tâm linh thấp, hữu thức hay vô thức, làm ba nhóm:
a. Người ở trình độ tiến hóa đủ thấp để cho phép họ tự động dùng chúng.
b. Người sử dụng được quyền năng đã có trong một kiếp trước, từ thời châu Atlantis, và có thể thấy cùng nghe ở cõi trung giới. Chúng là điều tự nhiên đối với họ nhưng thường là họ không hiểu mà cũng không làm chủ được chúng, và thường khi quyền năng khiến người ta thành nạn nhân, hoặc lợi dụng chúng.
c. Người thần bí (mystic) có khải thị (vision) nhờ thu hút được năng lực của linh hồn qua việc tham thiền và có ước vọng, huyệt đan điền hay huyệt cổ họng được kích thích, khiến họ thông thương được với cõi trung giới.

Trong cả ba trường hợp người ta tiếp xúc với cõi trung giới, cảm nhận chuyện ở đó. Luật tổng quát là chuyện gì có mầu sắc, hình dạng và hiện tượng tương tự như hoặc là bản sao của chuyện có nơi cõi trần, thì đó là hiện tượng sao chép của cõi này; và khi có hình dạng hiện ra nơi cõi trần thì đó là hiện tượng phối hợp những cảnh ether và cõi trung giới. Ta không có hiện tượng ở cõi trí và những cõi của linh hồn, và cần ghi nhớ điều này trong tâm. Về mọi mặt và trong không gian lẫn thời gian, cõi trung giới là một trạng thái thực mà cũng là thế giới của những hình dạng huyễn hoặc, do con người tạo ra và do óc sáng tạo đầy tưởng tượng. Nói thêm thì một trong những bài học chính phải học trên con đường của người đệ tử là học phân biệt điều chân với điều giả.

● Cầu Hồn
Người đồng thấy và nghe chuyện gì khi họ mê hay khi dùng khả năng thông nhãn và thông nhĩ ? Có nhiều trường hợp mà ta liệt kê vài chuyện như sau:
1. Ước mơ của một người hay một nhóm mà người đồng làm trung gian. Ước mơ này có hình thái tùy theo sức mạnh của ao ước không được thể hiện, hoặc khả năng trí tuệ của người hay nhóm người liên hệ.
2. Nhận thức của người đồng về hình tư tưởng thấy trong hào quang của người trong cử toạ. Những hình tư tưởng này được tạo nên qua bao năm tháng, và thường là hình của ai được yêu thương sâu đậm hoặc ghét bỏ dữ dội. Thường khi chúng có hình dạng rất thật nên khi người đồng mô tả thì người trong cuộc có thể nhận ra ngay, và cùng lúc ấy do thần giao cách cảm (đi vào huyệt đan điền) người đồng cảm biết được những điều mà người dự muốn nghe, chúng trùng hợp với cử chỉ, cách xử sự thường ngày, cách ăn nói và suy nghĩ của người đã khuất. Nó giải thích tại sao những lời thốt ra hay gặp trong các buổi cầu hồn có phẩm chất thấp kém. Người trung bình hay đi dự buổi cầu hồn thường không phải là người có óc thông minh cao, trừ phi họ tới đó chỉ để quan sát.
3. Vài trường hợp hiếm có khi linh hồn nào trên đường sắp tái sinh, hoặc tức khắc khi vừa qua đời, nôn nóng muốn tiếp xúc với thân hữu hay thân nhân qua người đồng, với mục đích tốt và có lý. Người ta biết có những trường hợp như vậy, và thường là người dự, người muốn liên lạc và người đồng có mức thông minh cao. Dầu vậy, đây là biệt lệ.
4. Sự mô tả của người có thông nhãn và thông nhĩ về hiện tượng nơi cõi trung giới, chúng tương đồng với chuyện nơi cõi trần, và bị chi phối bởi phẩm chất và tính chất của cử tọa. Người đồng diễn giải cho họ nghe và thường là người ta nhận biết.

● Hiện Tượng cõi Trung Giới
Ta không có ý nghi ngờ tính chân thật của buổi cầu hồn hay của người đồng có khả năng thông nhãn và thông nhĩ bẩm sinh, Ta chỉ vạch ra là hiện tượng mà họ nhận biết có tính chất của cõi trung giới, và ai có khả năng tâm linh cao khi nhìn vào cử tọa sẽ thấy chung quanh người dự một nhóm các hình - do người dự tạo nên - của ai đã qua đời, hình của ai còn sống mà được họ nghĩ tới luôn, cùng muôn hình vạn trạng như trong kính vạn hoa, thay đổi luôn lúc có lúc không, một số mờ ảo và số khác thật rõ ràng tùy theo sức mạnh của tư tưởng.
Những hình này liên can đến chuyện nhà của họ, công việc làm ăn hay là xoay quanh sức khoẻ. Người nhậy cảm ý thức các việc này, kết nối chúng với các hình tư tưởng và từ đó có diễn biến hay thấy trong buổi cầu hồn hoặc với cử tọa trung bình. Người đồng xử sự thành thật và mô tả chính xác những gì họ thấy, nghe, nên do đó nói đúng đắn và thật tâm, nhưng bởi họ không được huấn luyện trong cách diễn giải và kỹ thuật phân biệt điều chân với điều giả, họ không thể làm gì khác hơn là mô tả hiện tượng mà họ thấy, và lời mà họ nghe.
Mặt khác, trong vài trường hợp khi người có tính thần bí cũng có được những quan năng này, hiện tượng mà họ thấy và lời được có thể thuộc vào hạng rất cao. Dầu vậy, chúng vẫn là thuộc về cõi trung giới, vì liên can đến những chuyện xẩy ra và là hiện tượng nơi những cảnh cao của cõi này. Họ tiếp xúc với đời ước mơ của con người, và tùy theo ước nguyện của họ có khuynh hướng chính ra sao vào lúc ấy, họ sẽ tiếp xúc với điều tương hợp.
Nếu là người Thiên Chúa giáo nhiệt thành và mộ đạo, họ sẽ thấy một trong những hình tư tưởng xinh đẹp và sống động của đức Chúa có ở đó, ấy là sự tỏ lộ mầu nhiệm đối với họ nên tình thương và óc tưởng tượng cùng tất cả những gì tốt đẹp nhất trong người họ sẽ được gợi nên do việc chiêm ngưỡng và tính bí nhiệm của nó. Một số bài viết hứng khởi và khải thị (visions) soi sáng của người thần bí do vậy mà có.
Nếu là người theo Ấn giáo thì họ có thể thấy hình ảnh của đức Krishna là biểu hiệu của Tình Thương; còn nếu là Phật tử thì cảm nhận được đức Phật, đấng Giác Ngộ, đầy nét rực rỡ. Nếu là người nghiên cứu các hiểu biết bí truyền, học hỏi MTTL (Theosophia), họ có thể thấy hình ảnh của một Chân sư, hoặc trọn Thiên đoàn. Họ có thể nghe lời dạy bảo và do đó cảm thấy tin tưởng vững chắc là các đấng Cao Cả đã chọn họ để ban đặc ân và giao cho phần việc độc đáo.  Tuy nhiên tâm thức của họ thật ra không vượt ra ngoài cõi trung giới, và những tiếp xúc ấy chỉ là sự biểu lộ đẹp đẽ đầy hứng khởi của hiện tượng nơi cõi ấy, họ cảm được chúng nhờ ước nguyện của mình.
Tất cả những điều này sinh ra do huyệt đan điền hoạt động quá mức, do năng lực tuôn từ trên cao kích thích nó, năng lực mà anh đạt được trong lúc tham thiền đầy ước vọng. Kết quả bởi thế nặng về tình cảm, và phản ứng nẩy sinh cùng việc phụng sự theo đó mà có thuộc về mặt tình cảm hơn là trí tuệ. Nhiều việc như thế đang xẩy ra khắp nơi trên thế giới cho ai cầm đầu các môn phái. Họ là người chí nguyện thật lòng, đã thức tỉnh nơi những cảnh cao thuộc cõi trung giới. Họ thấy ở đó hình tư tưởng mà nhân loại tạo ra về Thiên đoàn, hoặc sự phản chiếu của Thiên đoàn ở những cảnh này (chúng họp thành một nhóm hình tư tưởng vẫn còn đầy sức mạnh), và nghe lập đi lập lại những gì mà người chí nguyện trên thế giới đã từng nghĩ và nói, tất cả chân, thiện và mỹ tuyệt vời. Thế rồi họ bắt đầu chỉ dạy và tuyên bố những gì đã nghe, thấy, học và thường là làm được việc tốt lành – nhưng ở cõi trung giới. Do vậy họ cũng không khác gì các trường hợp nói ở trên, tức lẫn lộn phản ảnh với thực tại, vật sao chép với nguyên bản, và điều mà con người tạo tác với điều mà thiêng liêng sinh ra.
Ta chớ nên quên rằng cõi trung giới là nơi nhân loại phải học để phân biệt đúng với sai, chân với giả, thành ra ai lầm lạc thì chỉ là đang học một bài học cần thiết. Chuyện xẩy ra là cõi trung giới đang dần được nhận biết và đó là chuyện tốt, cũng như nhờ vậy quần chúng biết tới sự hiện hữu của Thiên đoàn và của các Chân sư, cho dù ý thức này do người lẫn lộn phản ảnh và hình tư tưởng với thực tại, đưa ra.

Ở đây ta có thể nêu câu hỏi thích hợp là làm thế nào để người có khuynh hướng thần bí tránh được sai lầm và sự lẫn lộn này. Làm sao anh có thể phân biệt điều chân thật với ảo tưởng ? Đó là vấn đề riêng rẽ cho mỗi người, và không có luật rõ rệt nào để người ta hướng phản ứng của mình theo. Những luật được đề nghị lại rất là đơn giản khiến ai đang mở nhóm giảng dạy, và tuyên bố mình tiếp xúc với nhân vật ở cõi trung giới, có thể không thích làm theo. Tâm trí mà có thể giúp ta tránh được ảo tưởng và sai lầm ở cõi trung giới gồm các điều sau:

1. Vun trồng tinh thần khiêm tốn chân thật. Có một tính trịch thượng tinh thần mà trá hình như là lòng khiêm tốn, và xẩy ra nhiều vào lúc này. Nó khiến người ta xem mình như là được Thiên đoàn chọn để cứu độ thế gian; là phát ngôn nhân của các Chân sư hay là của đức Chúa; nó có khuynh hướng khiến họ sinh lòng chia rẽ với những người thầy và nhóm khác, bác bỏ không công nhận những mặt của một công cuộc chung, và lắm phương pháp mà Thiên Trí đặt ra để đến với các hạng người trong quần chúng.

2. Từ chối không nhận có tiếp xúc hay thông điệp nào mang tính phàm ngã, hoặc khiến người nhận đứng tách biệt, và do đó có khuynh hướng cho mình là đấng Cứu thế. Mặc cảm này nói đúng tim đen tâm trạng, và mô tả thái độ chắc nịch của nhiều người đang giảng dạy lúc này. Khi có tiếp xúc thật sự với Thiên đoàn và khi phụng sự đúng đắn, thì kết quả là có niềm tin nhiều người cùng làm việc cho công cuộc chung, nhiều sứ giả loan truyền cùng một thông điệp, có nhiều thầy chỉ dạy những mặt khác nhau của Chân lý duy nhất, và có nhiều con đường khác nhau cùng đưa tới Tâm Thượng Đế. Khi bắt được khải thị có tính bao trùm này, đi kèm với ý muốn phụng sự thì tinh thần dung hợp nẩy nở, và con người có thể tin chắc là anh thực sự được kêu gọi hợp tác, và có thể tin rằng khải thị mình có là chuyện thực.

3. Không nặng phần tình cảm. Người đệ tử và thần bí đúng nghĩa thì luôn luôn hướng về trí tuệ. Viễn kiến của anh không vướng phản ứng sai lầm sinh ra từ huyệt đan điền. Viễn kiến ấy đánh thức huyệt tim, khơi dậy đáp ứng của năng lực tụ vào huyệt ajna (giữa hai chân mày), và cuối cùng làm huyệt đầu gia tăng hoạt động. Về sau, anh có thể dùng sự kêu gọi bằng tình cảm đã được làm chủ để tác động lên đám đông, nhưng cho chính mình thì anh giữ cho không bị tình cảm chi phối.

B. Vị Trí của Quyền năng tâm linh
Chúng ta đang xem xét việc khai mở những quyền năng tâm linh, nó sinh ra tình trạng bệnh lý cũng như là cho xáo trộn tâm lý nghiêm trọng. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta tiến gần đến lúc mà những quan năng khác với ngũ quan sẽ được nhìn nhận, và thái độ của y khoa, khoa tâm thần và khoa thần kinh sẽ có thay đổi rõ rệt, cho trợ lực và giúp đỡ nhân loại nhiều hơn. Vào lúc này, sự phát triển những quyền năng tâm linh chính ra do có ý thức tâm linh về các hiện tượng luôn luôn có đó mà không được nhận biết, vì khả năng cảm nhận chúng còn tiềm ẩn hoặc còn đang ngủ yên.
Nơi người chưa phát triển hoặc trong các nhóm người còn thấp trên đường tiến hóa thấp, và nơi thú vật, ta thấy có nhiều cảm nhận tâm linh vì huyệt xương thiêng khích động cuộc sống nơi cõi trần, và huyệt đan điền quản trị đời sống tâm linh. Trong những trường hợp này, tất cả những huyệt trên cao còn lặng yên và chưa phát triển. Não bộ cho ra nhận thức trong thế giới tâm linh bậc cao, còn huyệt đan điền đóng vai trò tương tự là cho ra nhận thức thuộc thế giới tâm linh bậc thấp.
Trong trường hợp sau, ta có một trung tâm lực mạnh đến mức nó đẩy con người vào trạng thái tâm thức có tính căn bản là trung giới, tức quản trị đời sống tình dục theo cảm dục; trường hợp đầu thì huyệt ở đầu và não bộ làm việc hòa hợp chặt chẽ với nhau, ghi nhận những ấn tượng mà huyệt đầu có được trong những cảnh ether. Huyệt và não làm việc như là một. Nói chung thì có nhiều mức độ cảm nhận giữa tình trạng thấp và nơi bậc đạo đồ, chúng có thể chia làm ba loại chính:
– Sự khai mở và sử dụng những quyền năng tâm linh cả cao lẫn thấp.
Đây là giai đoạn tâm linh.
– Sự tiến hóa của cái nhìn thần bí.
Đây là giai đoạn Huyền học (Mysticism).
– Sự khải thị của ánh sáng và quyền năng. 
Đây là giai đoạn Huyền bí học (Occultism).
Tất cả các giai đoạn này đều là sự biểu lộ của hiểu biết thiêng liêng và có liên kết với, cũng như tùy thuộc vào sự phát triển của các huyệt. Với người chưa tiến hóa, chúng không gì khác hơn là các đĩa phập phồng, quay chậm có ánh sáng mờ. Trong thời mẫu chủng Lemuria, huyệt xương thiêng linh hoạt nhất và sáng nhất. Sang thời mẫu chủng Aryan, huyệt đan điền trở thành đáng kể nhơn hết. Ngày nay như ta biết, những huyệt cao hơn bắt đầu tác động và nhân loại khởi sự thu hái được lợi ích từ kinh nghiệm của ba mẫu chủng này.
Cho đa số người hiện nay huyệt cổ họng là cái linh hoạt nhất và đáng nói nhất, tuy nhiên sang mẫu chủng tới,  sẽ có đông đảo người sử dụng huyệt đầu. Khi ấy không còn ai thuộc mẫu chủng Lemuria (theo nguyên tắc là vào mỗi thời điểm chỉ có ba mẫu chủng hiện diện mà thôi), và tác động của huyệt xương thiêng giảm đi rất nhiều, cũng như con người làm chủ được sinh hoạt của nó. Chuyện này đã thấy được phần nào hiện nay nơi tầng lớp trí thức. Hoạt động của huyệt đan điền, là huyệt chính yếu cho mẫu chủng Atlantis cũng giảm đi rất nhiều khi huyệt tim được khơi động, và do đó loại tâm thức Atlantis cũng vắng dần. Khi ấy nhân loại đối đầu với những khó khăn, bệnh tật và tâm thần mang tính chất nhóm, chịu ảnh hưởng nhóm hơn là do sự khai mở cá nhân.
Đã có khởi đầu ở mức thấp nhất cho việc này, qua sự kiện là ngày nay ta nói nhiều về tâm lý quần chúng, điều mà vài trăm năm về trước không có ngoại trừ ở những trung tâm đô thị. Nay thì nó lan khắp địa cầu. Công luận, với ảnh hưởng chi phối và quyết định, là một giai đoạn khác của cùng yếu tố đang thành hình. Tâm thức Aryan với khả năng điều hợp và nhấn mạnh vào trí tuệ sẽ kiểm soát quần chúng, và từ từ tâm thức Atlantis trở thành mức thấp nhất trong tương lai khi có mẫu chủng mới, cũng giống như hiện giờ tâm thức Lemuria là mức chót nhất hiện nay.
Tới khi đó, quần chúng sẽ là giới trí thức, và giới trí thức ngày nay mai sau trở thành người có trực giác phát triển. Con số những vị đạo đồ, chân sư tái sinh dưới trần để thực hiện công việc hiển lộ của Thiên đoàn sẽ đông hơn. Thế giới khi ấy có đông đầy người mà cả ba thể xác, tình cảm và trí hòa hợp hoàn toàn với nhau, có đủ các đức tính và tật xấu đi kèm, cùng nguyện vọng và vấn đề ở giai đoạn phát triển đó.
Thế nên, ấy là lý do Thiên đoàn đang làm việc lúc này để khiến nhân loại tiến bộ nhờ vào tình thương, hầu cho tình thương và trí tuệ phát triển song song và quân bình nhau. Cũng vì lý do này mà cần làm cho quần chúng biết đến sự hiện hữu của Thiên đoàn, ý thức đó sẽ khiến gia tăng sức thu hút của tình thương mà không phải là để gợi nên lòng kính sợ, kính phục vì những tình cảm này thuộc về thời đại đã qua và phải biến mất.

C. Phân Biệt
Tâm thức Aryan và Quyền năng bậc thấp.

Trong giai đoạn tiến hóa của người sơ khai còn mang nhiều thú tính, thông nhãn và thông nhĩ là quyền năng bình thường, con người không có phản ứng trí tuệ nào và do vậy, hệ thần kinh cùng não bộ không bị căng thẳng. Con người chưa sử dụng cái trí, chưa có óc diễn giải và chưa có thái độ của cái tôi đầy kịch tính. Khi ngã thức phát triển thì những quyền năng bậc thấp nay hóa thành trở ngại và khiến chuyện trở nên rối rắm. Thế nên tạm thời chúng phải được đẩy lui, để cho cái trí có thể nắm quyền kiểm soát, sức sống của linh hồn có thể tuôn tràn xuống cõi trần. Trong sự phát triển đã định cho giống dân Aryan, có chủ ý là quyền năng tâm linh phải chìm sâu vào tiềm thức, nói khác đi theo dự định thì mẫu chủng Aryan không nên có quyền năng này. Đích nhắm của họ là  trí năng phát triển và nổi bật.
Điều này không thể làm được nếu lực tuôn vào người theo hướng huyệt đan điền, là huyệt chính yếu quản trị tất cả việc khai mở quyền năng tâm linh bậc thấp. Giống như ngày nay có việc chuyển trọng tâm từ những huyệt dưới hoành cách mạc lên các huyệt bên trên, thì huyệt đan điền (đóng vai trò não bộ nơi thú vật và người chỉ mới phát triển xác và tình cảm) phải ngưng kiểm soát hoạt động của người, và não bộ phải trở thành cơ quan điều khiển thay thế cho nó.
Nói tổng quát thì có ba giai đoạn phát triển:
– Giai đoạn tâm linh, lực tác dụng chính yếu là lực của cõi trần và tình cảm, huyệt tương ứng là  huyệt đan điền
– Giai đoạn trí tuệ, có sự hòa hợp dần ba thành phần của phàm ngã, vài phần trong não hóa nhậy cảm và được sử dụng; huyệt tương ứng là huyệt giữa hai chân mày (ajna).
– Giai đoạn mà linh hồn hay con người tinh thần làm chủ, huyệt tương ứng là huyệt đầu, là vùng não bao quanh tùng quả tuyến.
Những quyền năng tâm linh cao xuất hiện trong giai đoạn sau này và những quyền năng thấp có thể được sử dụng trở lại, nếu thấy cần thiết. Bậc đạo đồ có sự kiểm soát hoàn toàn mọi khả năng và quyền năng, cùng biết khi nào sử dụng và sử dụng ra sao cho có lợi ích nhất, dùng ít năng lực nhất. Dầu vậy ta nên ghi rõ là những người đồng hiện thời không thuộc vào loại này, vì vị Chân sư dùng quyền năng của ngài một cách lặng lẽ, kín đáo mà không biểu diễn trước công chúng. Đa số người có quyền năng tâm linh hiện thời làm việc bằng huyệt đan điền, và chỉ có rất ít người bắt đầu chuyển lực lên huyệt giữa hai chân mày và khởi sự phát triển trí não.
Tiến trình cho ra sự hòa hợp cái ngã và tạm thời các quyền năng thấp phải ngưng lại hoàn toàn. Chính trong nghĩa này mà có câu 'Cái trí giết chết sự thực', nhưng chỉ là sự thực tương đối, nói khác đi cái trí vạch ra sự huyễn hoặc nơi cõi trung giới, làm tách bạch mọi việc và do đó khiến ta biết rõ bản chất thực của sự việc. Điều gì được xem là chân thật và quan trọng, hoặc có nét lý thú và hào hứng với người đồng trung bình, cuối cùng chìm sâu trong tiềm thức khi trí năng phát triển.
Giai đoạn chuyển tiếp cần thiết ấy là gốc rễ của một số khó khăn cho nhiều người đồng vào lúc này. Họ phải đối đầu với nhiều vấn đề mà họ không thể giải quyết, cũng như không hiểu vì không có được sự huấn luyện cũng như là hiểu biết huyền bí. Trong thực tế đó là sự chuyển tiếp từ tâm thức Atlantic sang Aryan cao hơn. Họ được cho cơ hội tiến bước, và cần nhớ rằng luôn luôn ta phải trả giá cho mỗi bước đi tới trong cuộc tiến hóa, tức đi gần thêm tới mục tiêu tinh thần, bằng cách từ bỏ những gì mà từ trước đến nay được quí chuộng.
Có ước nguyện và sự phát triển về thần bí (mysticism) là sự nẩy nở của tâm thức Atlantis cao, bản chất của nó tình cảm và thuộc cõi trung giới. Với tâm thức Aryan có đặc tính là trí tuệ, sự  nẩy nở dẫn tới huyền bí học và khoa học, tức là mức phát triển cao nhất của trí cụ thể. Tính cảm thị (psychometry) dần dần phải nhường chỗ cho khả năng cảm ứng tinh thần, nhờ đó ta được như đức Chúa, chỉ giản dị 'biết' người khác ra sao, tình trạng của họ và tình trạng nói chung của sự sống trong mọi hình thể. Ấy là bước đầu tiên tiến đến chìa khóa tinh thần mà tính cảm thị là biểu lộ thấp nhất.
Khó khăn lớn nhất cho người nhậy cảm tâm linh và ai có tính đồng cốt bẩm sinh, là họ không thể làm chủ một cách thông minh hiện tượng sinh ra. Thiếu kiểm soát khả năng thể chất bị xem là chuyện không hay, thì thiếu kiểm soát chuyện tâm linh cũng thuộc cùng loại y vậy. Nơi đây ta quay trở lại sự phân biệt giữa tâm thức Atlantis và Aryan, để nói rằng người nhậy cảm tâm linh mà có tâm thức Atlantis (họ là đại đa số lúc này) sinh hoạt bình thường khi biểu lộ khả năng tâm linh tuy như vậy là đi thụt lui, còn người có tâm thức Aryan mà biểu lộ những quyền năng này thì đó là chuyện bất bình thường.
Ngày nay nhiều trường hợp tâm thần thiếu cân bằng, hoặc ai tìm cách chấm dứt sự thông thương với cõi trung giới (như không muốn thấy và nghe chuyện vô hình), bị xem là điên loạn hoặc mấp mé bên bờ điên loạn. Vấn đề của họ không phải là về trí não mà hoàn toàn liên can tới huyệt đan điền. Chỉ khi nào điều này được nhìn nhận thì chúng ta mới khởi sự  đối phó đúng cách.

Tham khảo: Esoteric Psychology, vol. 2, Alice A. Bailey.

Geese