NGŨ HÀNH
Vào thời điểm có xáo trộn, khi ngay cả trí óc khôn ngoan nhất cũng hoang mang không biết nên tin vào điều gì, hay xử sự sáng suốt và quả quyết ra sao, khi tiêu chuẩn và qui ước thời trước bị gạt bỏ mà chưa có gì mới để thay thế chúng, chuyện không có gì ngạc nhiên nếu đa số chúng ta bị hoang mang và suy đoán nguyên nhân có thể có của những rối loạn xẩy ra ở mỗi nước và mỗi dân tộc. Chỉ có ai nghiên cứu huyền bí học hay chiêm tinh học mới thấu hiểu phần nào tình trạng này; vì họ ý thức rằng thế giới đang bước vào một chu kỳ mới, trong đó truyền thống sinh sống cũ phải nhường bước cho những lực của Tân Kỷ Nguyên không thể tránh được, và các lực ấy nay đang biểu lộ thấy khắp nơi trên thế giới.
Nhờ tiếp xúc cùng các Chân sư Minh Triết và nhờ chiêm tinh học, tác giả David Anrias đã có thể khám phá phần nào các nguyên nhân của xáo trộn chung đó, cũng như là thấy trước một số những diễn biến tiếp theo mà nhiều phần sẽ hiển hiện, đặc biệt ở phương Tây. Nỗ lực này còn nhằm phơi bầy cho thấy các Chân sư liên hệ gần gũi ra sao với sự phát triển tương lai của con người, ngược lại với nghi ngờ về quyền năng của các ngài trong việc thúc đẩy cuộc tiến hóa của nhân loại), khi ông tìm cách thấu hiểu ngũ hành là những chất tạo nên các thể của ta.
Như mọi người biết, thân xác được làm bằng năm loại vật chất là thủy, hỏa, thổ, khí và ether thấm nhuần khắp thể. Các thể thanh hơn là tình cảm, trí và bồ đề tương tự vậy cũng chia sẻ với mức độ khác nhau tính chất thanh của ngũ hành, thí dụ thể tình cảm tương ứng với hành thủy, thể trí với hành khí và ether, và bồ đề với hành hỏa. Trong lá số của mỗi người, thường thường một hành chiếm ưu thế hơn các hành còn lại, tuy nhiên mục tiêu sau cùng cho ta là đạt tới hiểu biết về ngã thức, và làm chủ mỗi hành trên con đường tiến lên đến sự Sáng.
Anrias ghi lại cuộc nghiên cứu của ông thành sách tên Adepts of the Five Elements. Nhiều chi tiết trong sách đã được trình bầy rải rác trong PST 32 (Agni Yoga), (Những Vì Sao, 1001 Chuyện), 54 (1001 Chuyện), trong số này ta ghi tiếp các nhận xét của ông, và xin độc giả xem lại những bài trên để nắm trọn ý. Bài chỉ ghi tóm tắt ảnh hưởng của các vì sao và ngũ hành cho thế giới nói chung và hội TTH nói riêng nên nếu được, xin khuyến khích bạn đọc nguyên tác Anh ngữ. Sách đã tuyệt bản nhưng thường được lưu trữ trong thư viện các chi bộ TTH.
...
Vào cuối một chu kỳ đã định, sự điều chỉnh trong vũ trụ về mối tương quan của bốn hành trong liên hệ với địa cầu là điều không thể tránh được, và chúng thành tái phân cực qua các đặc tính chính của chòm sao nào đó trên đường hoàng đạo nay có ảnh hưởng chế ngự địa cầu. Vì vậy vào giai đoạn đặc biệt hiện giờ là sự chuyển tiếp giữa năng lực này đến thay cho năng lực kia rút đi, có tranh chấp giữa chu kỳ Song Ngư (Pisces) đang hết và Bảo Bình (Aquarius) đang bắt đầu và sẽ ảnh hưởng thế giới trong 2.000 năm tới.
Thay đổi quan trọng như thế luôn luôn được Thiên đoàn, những vị hướng dẫn một cách vô hình vận mạng của nhân loại, dự kiến trước. Một số Chân sư, nhờ tham thiền về chòm sao này trong nhiều thế kỷ trước đó và do vậy có được ái tính tinh thần lớn lao với nó, trở thành hòa nhịp với mức cao nhất của làn rung động từ chòm sao. Tương tự vậy, các Ngài có được khả năng chuyển hóa các nguyên tố thấp của nó để đảo ngược lại, tới mức mà nhân quả cho phép, những tà lực gắng sức làm trì hoãn việc khởi đầu Tân Kỷ Nguyên.
Đường Hoàng đạo (Zodiac) có 12 chòm sao với các năng lực riêng biệt, nên không cần phải nói, một số từ lực tuôn từ vài chòm sao có ái tính với Bảo Bình nhiều hơn là những chòm khác, và chòm Song Ngư với ảnh hưởng chế ngự trong thời vừa qua là chòm nhiều phần đối nghịch hơn hết thẩy. Thế nên hệ quả là những Đạo sư nào tìm cách điều hành những lực tinh thần kết nối với tân kỷ nguyên, sẽ có phần việc vô cùng khó khăn trong mấy thế kỷ tới, vì chẳng những các Ngài phải tiên đoán tương lai tới một mức đáng kể, mà còn phải tránh không làm tiêu trừ công việc của những Đạo sư khác, những Vị canh giữ các lực đang tàn của thời đại đã qua, do nhu cầu vẫn còn của đa số người đang tiếp tục bám víu vào truyền thống cũ và tục lệ tôn giáo xưa. Phần việc của các Đạo sư này cũng khó khăn ngang vậy, bởi các Ngài phải đối đầu với các lực phá hoại, nhắm đến việc lợi dụng thời đại có thay đổi để gây khổ sở, rối loạn và xáo trộn ở bất cứ nơi nào có thể được.
Có nhiều luật quản trị cuộc sống trong đó có luật chu kỳ. Luật tác động tựa như bộ phận bên trong của một đồng hồ vĩ đại, gồm nhiều vòng răng cưa xoay tròn đan lẫn vào nhau, nối kết với nhau chặt chẽ. có vòng này nằm trong vòng kia lớn hơn, có vòng tiếp xúc không phải chỉ với một mà với nhiều vòng khác to nhỏ khác nhau. Áp dụng vào nhân loại, ta đang nằm trong một chu kỳ rất lớn mà Phật giáo gọi là thời mạt pháp, Ấn giáo gọi là Kali Yuga, trong đó có một chu kỳ nhỏ hơn và vào cuối của chu kỳ này có sự tuôn tràn mạnh mẽ lực tinh thần vào khoảng 1890, dẫn đến việc thành lập trường Bí Giáo (Esoteric School E.S., xin đọc thêm PST 61) trong Hội TTH.
Do sự hy sinh nơi cõi cao của các Vị trong Thiên đoàn (Hierachy), có nhiều luồng năng lực tinh thần được cho tuôn vào trọn hào quang trái đất. Những đường lực này bắt đầu tuôn bao quanh trái đất với mức rung động ngày càng tăng, kích thích những ai nhậy cảm hơn làm họ có nỗ lực ngày càng lớn hơn trong ước muốn có được hiểu biết tinh thần. Các luân xa trong thể sinh lực của họ ngày càng đáp ứng hơn với ảnh hưởng từ cõi cao, dù rằng đa số người như vậy tích cực sống đời bận rộn với công việc làm bình thường nơi cõi trần.
Ta mở ngoặc một chút để nói về sự hy sinh ghi ở trên. Theo bà Besant, tuy các Chân sư có sự hiểu biết ta gọi là toàn tri khi so với người đời, ở nơi cõi của các Ngài thì tương đối Ngài không toàn tri so với những vấn đề mà Ngài phải giải quyết. Do đó có khả hữu là tính sai, nhầm lẫn, làm trật ... Khi Ngài tình nguyện, nói sát nghĩa đen là làm thí nghiệm với một phong trào tinh thần mới, thí dụ như Hội TTH, Chân sư nhận lãnh karma của diễn tiến công chuyện mà Ngài không thể thấy trước.
Chuyện không tránh được là phải có một giai đoạn chuyển tiếp giữa bất cứ hai chu kỳ nào, cách tiến hành duy nhất của việc học hỏi huyền bí học là phối hợp tới hết mức đường lối cũ và mới. Vì thế, nhìn lại lịch sử Hội ta thấy việc huấn luyện nhóm học viên bí giáo đầu tiên người tây phương phần lớn đi theo phương pháp Ấn độ, gồm các huấn thị nghiêm khắc mà người ta phải theo sát chặt chẽ. Nhận xét thấy là muốn học viên tây phương trung bình duy trì tiêu chuẩn cũ của đông phương về sự trong sạch thân xác trong điều kiện ngày nay, là điều gần như bất khả.
Vài khó khăn nữa cũng xẩy ra. Bộ The Secret Doctrine là tài liệu chính cho việc học nhóm, tuy nhiên thể thượng trí của học viên tây phương trung bình hoang mang thường bị thấy là không đủ sức làm công việc này. Kế đó việc tham thiền sớm trong ngày lúc bụng trống khoảng 6, 7 giờ sáng là việc dễ làm tại Ấn, nơi mà thói quen đã có lâu đời và điều kiện khí hậu thuận lợi, nhưng gần như không sao làm được ở phương tây. Vào năm 1912, các Chân sư theo dõi Hội nhận thức là điều gì có thể làm được cho vị đạo đồ có ý chí mạnh mẽ, tức hai vị H.P.B. và bà Besant, thì không dễ làm cho học viên tây phương trung bình vẫn còn bị karma ngày xưa cản trở, hay có thân xác mảnh dẻ.
Thế nên các Ngài chuyển lực từ trước đến nay chỉ thuộc về cõi thượng trí, xuống cõi hạ trí và sau đó xuống cõi trung giới bằng việc có nghi lễ cho nhóm. Lẽ tự nhiên việc chuyển lực này đòi hỏi có hy sinh lớn lao về phần các Ngài, và cần sự hợp tác của một Chân sư khác, là người liên kết với đường lối huấn luyện huyền bí thuần tây phương từ nhiều thế kỷ, và còn giữ thân xác thích hợp cho loại công việc này.
Việc thay đổi chủ trương (là có nghi lễ) không được giải thích, nên nhiều hội viên cho là Hội không còn duy trì tiêu chuẩn ban đầu của bà Blavatsky, và vì thế họ rút lui khỏi Hội. Ai vào Hội lúc việc học huyền bí học có tiêu chuẩn giản dị và gọn gàng, nay rời bỏ đi, phần lớn là vì karma của họ không phải là loại có thể được cân bằng nhờ nghi lễ và karma nhóm mà loại sinh hoạt này sẽ tạo nên không thể tránh được.
Nhìn sự việc theo chiêm tinh học bí truyền, sự kiện Hội có phát triển về mặt nghi lễ được giải thích là do đặc tính cung bẩy từ khoảng thập niên 1920. Ấy là vì năng lực từ các hành tinh trong thái dương hệ, và từ các chòm sao ngoài thái dương hệ có phối hợp đặc biệt vào thời điểm ấy, tạo ra giai đoạn có bành trướng tổng quát, đặc biệt có liên kết với nghi lễ. Kết quả chung là số hội viên lên tới mức cao nhất trong giai đoạn này, cũng như vài sinh hoạt có liên hệ với Hội đã sử dụng nghi lễ nhiều hơn.
Hành Thổ.
Nhắc lại trong các bài trước thì các linh hồn tiến hóa đáp ứng với ảnh hưởng của Uranus vào lúc này sẽ có khuynh hướng sinh ra tinh thần quốc tế trong các đô thị hàng đầu ở phương tây.
Tinh thần quốc tế ấy có được còn là do sự thúc đẩy của Chân sư Rakoczi, Vị đứng đầu cung bẩy và nay đảm nhiệm chức vụ MahaChohan, thường được gọi là Đức Văn Minh. Trí tuyệt vời của ngài nằm đằng sau mỗi sinh hoạt và khuynh hướng tư tưởng. Ngài đặc biệt tích cực về mặt chính trị, nhất là tại những nước nào có thể là mối nguy hiểm cho nước láng giềng và sinh ra chiến tranh. Đôi khi vào những lúc có cơn khủng hoảng, ngài sẽ đảo ngược các khuynh hướng ấy bằng cách gây ấn tượng về đề nghị bất thình lình mà sáng suốt lên trí não của một số ít chính khách, ai có thể đáp ứng tính chất của ngài. Liên Hiệp Quốc là một ý tưởng như vậy, nó mang tính chất Uranus là đại đồng, bao trùm, hướng tới hòa bình trên thế giới với các nước đều góp phần thực hiện để giữ gìn hòa bính. Bằng cách ấy, các tiêu chuẩn chính trị hoàn toàn mới được tạo ra và các nước hành xử theo đó.
Hành Thủy.
Vận mạng của nền văn minh tây phương là tiến hóa theo đường hợp tác có ý thức, nên có nhiều nỗ lực tạo tình huynh đệ đại đồng trước tiên từ vài tổ chức huyền bí học, chính yếu như hội Tam Điểm Mason và Rosicrux dùng nghi lễ. Tuy nhiên nỗ lực bị thất bại lần này rồi lần kia, phần lớn vì hội viên của những tổ chức này muốn có hiểu biết hay quyền năng cá biệt hơn là sự giác ngộ, là điều chỉ có thể đạt được qua việc phụng sự có tính huyền bí.
Huyền bí học là gì ? Nói vắn tắt thì đó là việc học hỏi và sử dụng các lực huyền bí trong thiên nhiên và con người; hiểu biết về cách những lực này tác động cho ta giải thích rõ ràng về nhiều việc mà không lời giải thích nào khác có thể bằng. Khoa chiêm tinh học phổ thông cho hiểu biết bề mặt về sự tương tác giữa các lực, còn khoa chiêm tinh học bí truyền cho giải thích cặn kẽ về mặt tinh thần. nguyên ủy bên trong. Thí dụ là sự kiện Krishnamurti và Hội. Krishnamurti được bà Besant và một số lớn hội viên thời bấy giờ (thập niên 1920) xem là nhân vật được đức Di Lặc (đức Chúa) sử dụng để Ngài đến với nhân loại. Ông được gọi là vị Huấn Sư Thế Giới - the World Teacher, nhưng rồi ông rời bỏ Hội năm 1929 và giải tán tổ chức được lập ra để hỗ trợ ông là The Order of the Star.
Điểm đáng chú ý là phần năng lực chính tác động lên Hội, trong phối hợp nhiều năng lực, có liên hệ với karma tức với quá khứ; trong khi đó vận mạng của Krishnamurti là hướng về tương lai, đặt nền tảng cho tương lai. Vậy thì có sự chỏi lực mạnh mẽ mà chỉ có ai biết chút ít về chiêm tinh học mới nhận ra. Bởi không có mấy người có hiểu biết ấy nên làm như mọi người tin rằng 'bình cũ rượu mới' sẽ bằng cách nào đó dung hòa được với nhau, và tránh được đổ vỡ.
Tình trạng xẩy ra là nhiều sinh hoạt khác nhau trong Hội khi ấy chỉ dựa trên đường lối của quá khứ, còn triết lý của Krishnamurti thì hoàn toàn mới mẻ, có tính kích thích; như vậy mong mỏi có dung hòa giữa hai lực tỏ ra không thực tế, và cuối cùng là sự tan vỡ của tổ chức (The Order of the Star được lập ra cho ông), của mơ ước nhiều người. Vài bài học có thể rút ra từ kinh nghiệm này:
● Trong sự tiến hóa của con người, có những lúc có nhiều lực đối chọi, tranh chấp nhau, chúng không nhất thiết bất lợi mà có thể rất hữu ích cho ta, nếu biết cách sử dụng để giải trừ nhân quả và tiến bước.
● Mọi việc xẩy ra theo luật thiên nhiên, tiếp theo giai đoạn bành trướng là giai đoạn co rút, con số hội viên lên tới mức tối đa khi ông còn trong Hội, và rồi khi Krishnamurti tách rời khỏi Hội, số hội viên sút giảm lớn lao. Hiểu biết sự vận hành giúp ta có thái độ đúng đắn với những thay đổi trồi sụt này.
Hành Khí.
Thế giới thiên thần với các vị đại thiên thần cũng đóng vai trò quan trọng trong chặng đường tương lai của con người, các vị thần nhân quả sử dụng thiên thần làm tác nhân phá vỡ những hình thức xưa, hầu cho hình thức mới cao hơn được sinh ra trong thời đại mới. Bởi thời đại Bảo Bình sẽ được chia làm ba thời kỳ hay chu kỳ, mỗi khoảng kéo dài chừng 700 năm, sẽ có những loại thiên thần khác nhau làm việc trong mỗi lúc.
Giai đoạn đầu sẽ có nhiều thay đổi mau lẹ và phá hoại đáng kể việc gì xưa, cũ; thế nên thiên thần cung một (đặc tính ý chí) tự nhiên đóng vai trò chính yếu hơn hết. trong vài thế kỷ tới, dần dần nhân loại sẽ không còn quan tâm đến các hình thức nghi lễ đã cũ, mà đa số người chú ý đến hiện tượng tâm linh nhưng theo quan điểm khoa học hơn lúc này. Các thiên tiên (thiên thần không khí) càng lúc càng tích cực hơn với việc giúp các thể con người đáp ứng nhiều hơn với các lực trong không khí, do đó trở nên có trực giác mạnh hơn, và cởi mở đối với ảnh hưởng của cõi thượng trí.
Giai đoạn hai có thiên thần cung hai chiếm vai chính, và giai đoạn chót có sự nhận biết ảnh hưởng cùng sức mạnh của âm thanh. Lẽ tự nhiên khả năng mới này của con người đưa tới loại âm nhạc mới trong thời kỳ sẽ tới đó, đòi hỏi có cảm quan hoàn toàn mới về nhạc để có thể thưởng thức nó trọn vẹn. Nhạc khi ấy có khuynh hướng làm các thể thanh thoát ra khỏi những giới hạn bó buộc của cõi trần, và do vậy nó tương tự như loại nhạc cao nhất của cổ Ấn Độ.
Hành Hỏa.
Đặc tính hỏa nơi một người biểu lộ qua việc hy sinh, lực đi từ luân xa tim lên luân xa trên đầu; tcòn với ai mà tình cảm chế ngự, lực sẽ đi xuống biểu lộ thành dục tình. Như vậy nơi cõi thanh chuyện cũng giống như cõi trần là nước có khuynh hướng làm tắt lửa, khiến nó tàn lụi đi. Nói vắn tắt thì trận chiến tâm linh xẩy ra giữa việc nâng tâm thức lên cõi bồ đề tức lửa tinh thần, hoặc tiếp tục ở lại cõi dục vọng tức hành thủy và bị đẩy đưa vùi dập bởi vô số những lực đối kháng nhau.
Ấy là diễn biến xẩy ra trong nội tâm, còn nói về sự tương tác giữa hai người với nhau, ai có nhiều năng lực hỏa trong tâm tánh mà làm việc chung với ai mà bản chất có hành thủy đóng vai trò chính, là dễ chuốc lấy tai họa, vì hoạt động của họ sẽ bị đè ngập hay tiêu tan bằng cách này hay kia. Trong tương lai bởi việc hoạt động chung hay tinh thần nhóm sẽ ngày càng phát triển, để được thành công người ta sẽ không thể không có hiểu biết về chiêm tinh học, tức việc học hỏi khoa này sẽ gia tăng để sinh hoạt bí truyền của nhóm được thành công, dù đó là việc rất nhỏ.
Ta sẽ thấy rằng chỉ ai có ảnh hưởng tương tự hoặc bổ túc về các hành mới nên làm việc chung với nhau, hơn nữa khi một công cuộc gồm nhiều người hợp lại mà bốn hành đối kháng nhau ít nhiều, thì sự kết hợp ấy chẳng những vô ích mà thường khi tệ hại. Bộ sách Agni Yoga diễn giải về hành hỏa gần như bừng bừng khiến người ta khó đọc liên tục một lúc lâu, nó làm như ta cảm nhận được nhiều cuộc mạo hiểm lớn lao về mặt tinh thần có lắm rủi ro, mà chắc chắn có liên kết với việc khám phá ra hai hành tinh Uranus và Neptune trong thái dương hệ.
Trong sách có nhiều đoạn nói về những thế giới xa vời (far-off worlds), và việc cần đem vào tâm thức mình cảm nhận hằng có là không gian như là chất sống động. Hai điểm ấy muốn nói hiện nay, Chân sư Morya, Vị biểu lộ trội nhất đặc tính hỏa (lửa tình thương) đang liên kết chất ether vũ trụ với chất ether nơi cõi trần trên địa cầu.
Nói thêm một chút thì giống như con người đang học hỏi để sinh hoạt trong các cõi trên trái đất, những bậc cao cả cũng đang tìm hiểu những cảnh giới trong vũ trụ, bắt đầu với chất ether vũ trụ. Hiểu biết này không có nghĩa gì với chúng ta, ngoài ý 'Trên sao dưới vậy', chúng ta nỗ lực tiến bước thì Chân sư cũng đang theo đuổi việc phát triển ở một mức cao hơn cho bậc như Ngài, trên thang tiến hóa dường như dài vô tận.
Tính chất không gian rộng mở ấy thấy trong câu trích sau:
– Thể thanh của nhà Yogi, được thoát khỏi ràng buộc, đi tới nhiều cõi sống khác nhau. Việc vút bay vào không gian và lao người xuống tầng sâu thăm thẳm của hành tinh đều có thể đạt được ... Nhận thức ấy cần cho sự tiến bộ của tinh thần. Nỗ lực đi tới sự toàn thiện sẽ có nhờ ý thức về sự chưa toàn thiện.
Một nghi lễ mới mang đặc tính hỏa sẽ được áp dụng với sự hợp tác của các hỏa thần, và chỉ những ai có các thể đủ thanh khiết để làm con kinh trực tiếp cho lực bừng bừng ấy, mới làm người cử hành lễ. Họ chuyển lực thiên thần xuống cho ai chưa có thể tự mình tiếp xúc với các làn rung động cao như vậy, mà cùng lúc tạo nên một xoáy lực để Chân sư có thể hướng ước nguyện của nhóm lên trên nhờ hành hỏa. Cũng do đặc tính thời đại, nhiều người tiến hóa xa sẽ sinh ra dưới ảnh hưởng của hành hỏa đặc biệt trong tuổi Nhân Mã Sagittarius, vì tuổi này cho họ có vận cụ để hợp tác với thiên thần tốt hơn người tuổi hỏa khác.
Hành Ether.
Nếu phân tích sự liên hệ của bốn hành thủy, hỏa, thổ và khí với con người về mặt tinh thần và tâm linh đã là chuyện khó khăn, sự việc càng khó hơn nữa khi phân tích hành ether theo cách tương tự. Bởi theo truyền thống chiêm tinh học con người có điểm tương ứng với bốn hành đầu, thí dụ như sao này mạng hỏa, sao kia mạng thổ v.v.; còn với ether thì không có mốc điểm nào để hướng dẫn ta ngoài lý thuyết của Ấn Độ, nói rằng có bốn cảnh ether (mỗi cõi chia làm bẩy cảnh) tương ứng với bốn hành và bốn cõi (vật chất, tình cảm, trí và bồ đề). Ta biết rằng những cảnh và cõi này thấu nhập vào nhau, chỉ phân biệt do làn rung động có nét tinh tế và mau lẹ thay đổi.
Cảnh ether thấp nhất, đậm đặc nhất nay được khoa học công nhận, và là môi trường truyền sóng radio. Khi nghe truyền thanh là ta chấp nhận sự biểu lộ của chất ether vô hình như là điều hiển nhiên, là hiện tượng khoa học mà vài thế kỷ trước đó sẽ coi không khác gì phép lạ. Việc lắng nghe máy phát thanh còn có khuynh hướng làm nẩy nở một quan năng mới mà nhiều phần có tính tự động. Hẳn ai cũng có kinh nghiệm của việc không màng trong một lúc thị giác, tư tưởng và luôn cả cử động tay chân, để chú tâm trọn vẹn vào việc lắng nghe.
Để tiếp xúc với Chân sư trong lúc tham thiền, người ta phải áp dụng cùng phương pháp này mà định trí nhiều hơn. Sự khác biệt là thay vì hoàn toàn tiêu cực, học viên phải có nỗ lực tích cực làm cho mình hòa nhịp với ether có làn rung động cao hơn nhiều so với sóng radio. Bốn loại ether tương ứng với bốn hành thổ, thủy, hỏa, và khí, vậy thì:
● Người ta phải làm chủ lòng ham muốn vật chất, có liên kết với ether thứ nhất (từ dưới đếm lên) có tính thổ trước khi có thể cảm biết hay hiểu được vùng ether thứ ba có hành thủy.
● Tương tự vậy, cần phải có hiểu biết đáng kể về những khó khăn tình cảm của người khác, trước khi ta tiếp xúc được với ether thứ hai.
● Nó tương ứng với hành khí, chỉ nhờ vào loại này mà tư tưởng được truyền đi; nói khác đi ether này có kết nối với cõi trí, trí năng. Khi con người chế ngự được cảnh ether này, việc truyền làn rung động của tư tưởng hóa thành chuyện thông thường, giống như việc truyền làn rung động của âm thanh ta có ngày nay. Ảnh hưởng của hai hành tinh Uranus và Neptune làm kích thích hoạt động ether- trí này, người có tính Uranus khi sinh hoạt ở cảnh ether thứ ba sẽ thành người truyền, và người loại Neptune thành người nhận tư tưởng tuyệt hảo.
Khả năng truyền và nhận tư tưởng này luôn luôn được các Chân sư sử dụng để liên lạc với nhau và với đệ tử các ngài. Nơi mỗi cá nhân, khi khả năng trở nên toàn hảo thì nó muốn nói họ phát triển được bằng nhau khả năng truyền và nhận.
● Chót hết là ether thứ nhất có hành hỏa, người ta phải loại hẳn khỏi tâm trí mình mọi tham vọng cá nhân hay lòng giận dữ mới mong tiếp xúc với nó được an toàn.
Không một chặng nào trên thang phát triển về mặt bí truyền có thể được bỏ qua mà không bị nguy hại. Điều này càng ngày càng thấy rõ khi con người trở thành có ý thức trong thể sinh lực, như bây giờ ta có ý thức trong thể xác. Nói rộng ra, trong khi chúng ta bận rộn tìm hiểu về bốn cảnh ether của địa cầu, các vị Chân sư đến phiên các ngài xem xét những vấn đề thâm sâu nhất có liên quan đến khoảng không gian có ether vũ trụ thấu nhập, vượt xa bên ngoài thái dương hệ của ta.
Như vậy, trong khi sự rung động của Uranus và Neptune tác động lên ai chưa tiến hóa nhiều và chưa biết cách làm chủ chúng, rung động ấy dễ sinh ra bất hòa và rối loạn, nơi những đấng Cao Cả chúng được tổng hợp tuyệt vời để chuyển hóa, hòa hợp và tái tạo. Năng lực tâm linh thấu nhập hết mọi chướng ngại, mọi biểu lộ vật chất không có giá trị gì so với năng lực thanh bai nhất, điều sẽ chuyển hóa vật chất thô kệch thành sự sáng trong tương lai.
Sự định tâm mạnh mẽ để tìm giải pháp cho các vấn đề chung làm các ngài kết hợp với nhau chặt chẽ hơn bao giờ hết, và luôn có khuynh hướng khiến các ngài có vẻ mặt giống nhau, đặc biệt lộ qua ánh mắt. Trong nhiều loại sinh hoạt phức tạp có sự quan tâm của các Chân sư, loại được chú ý nhiều hơn hết là sự đồng hóa về mặt tâm lý khi các ngài đi xuống hòa vào tâm thức của đệ tử, mà nói chung là tất cả những ai đáp ứng với ảnh hưởng của những hành tinh này.
Và như vậy những đấng Cao Cả về một khía cạnh lại đặt bước nơi cõi trần trở lại, và khi hòa vào tâm thức của đệ tử, các ngài chia sẻ những khó khăn và vấn đề trong đời sống của người sau. Khả năng đi xuống mức thấp như vậy, so với mức tiến hóa của các ngài dẫn tới điều không tránh được là sinh ra khả năng đi lên tới mức cao hơn nữa. Chuyện muốn nói là chẳng những nhờ việc đồng hóa chặt chẽ và thân thiết như vậy, các Chân sư có thể hướng dẫn, an ủi và gợi hứng ai nơi cõi vật chất yêu quí ngài, mà các ngài lại còn có thể đồng hóa chính mình với tâm thức của những Đấng cao tột hơn là các Thiên Thần Vũ Trụ, Đấng cai quản những hệ xa xăm mà những Chân sư với lòng tôn thờ, kính yêu, ngưỡng mộ, mong ước kết hợp với các Ngài, tựa như chúng ta có ước nguyện được kết hợp với các Chân sư.
Adepts of the Five Elements – David Anrias