VÒNG TÁI SINH
CHƯƠNG 5
ĐỨC
Khi ngài nói rằng trong cuộc đời mà ngài sắp cho tôi thấy, tôi sẽ đem vào người những thực thể tự mình đã sinh ra ở Atlantis, tôi không hiểu sao có thể làm việc ấy, nhưng khi được mang trở lại quá khứ, nhập trở vào tâm thức của Carl von Schwartzbau, tôi chợt hiểu.
Mới đầu tôi thấy như mình ở tù. Tôi cảm nhận sự tối tăm, một cảm giác bị giới hạn kinh khiếp. Rồi tôi ý thức rằng nhà tù chính là thân xác tôi, nó bó quanh và cột chặt mình, thô kệch, lùn, bị biến dạng như quỷ. Tôi đang đứng nhìn vào gương mờ. Sau lưng tôi ánh nắng mặt trời dọi xéo vào căn phòng ảm đạm, chiếu vào thảm trên tường có hình mờ nhạt. Trước mặt tôi là cái đầu to lọt thỏm vào đôi vai cong, mặt chè bè đầy mụn, tàn nhang, đôi mắt quá buồn, quá thảm não giống như một linh hồn bị cầm giữ đang rầu rĩ nhìn qua chấn song nhà giam.
Cặp mắt nhíu lại.
– Thân thể gớm ghiếc chưa ... tôi nói nho nhỏ. Người đứng sau lưng tôi không trả lời, tôi nhún vai nặng nề rồi quay khỏi gương, đi ra ánh nắng dựa đầu vào đá lạnh, nhắm mắt vì luôn luôn nhức mắt khi ra nắng.
Tôi thấy rối trí, việc không thể dùng ý chí kiểm soát cơ thể - như trong lúc động kinh - làm tôi ngầy ngật, và mừng là có Sigismund trong phòng. Ông là người duy nhất có thể đối phó khi tôi lên cơn động kinh. Mỗi lần như vậy tôi thấy nhiều hình ảnh nhẩy múa đe dọa trước mặt, muốn định trí tôi phải nỗ lực hết sức tới nỗi sùi bọt mép, đầu lắc lư và tay chân quờ quạng, vung vẩy.
Sigismund, tu viện trưởng tu viện Schwartzbau, ngồi ở bàn chợt đứng bật dậy, làm dấu thánh giá.
– Carl, Carl, ông kêu to.
Nhưng tôi đã đứng thẳng được. Tôi thở hổn hển, lết tới chiếc ghế Sigismund đẩy cho.
– Chúng lại tới nữa, tôi thì thào vì tôi tin đó là quỷ dữ đến quấy phá tôi.
Tôi gục đầu xuống bàn, vùi đầu vào cánh tay. Nhưng rồi ngồi dậy, cười cay đắng, đưa tay đẹp đẽ gân guốc - khác hẳn với nét mặt như quỷ - đập bàn.
– Tôi tin là, tôi nói khàn khàn, tôi là người bị ghét nhất đời.
Sigismund làm một cử chỉ tuyệt vọng, ông biết quá rõ là không lời nào có thể dẹp nỗi cay đắng trong lòng tôi.
– Anh không làm giảm sự thù ghét ấy, ông lên tiếng, nếu nhất định thực hiện ý của anh.
– Chính thế, tôi cười thật chua chát và ngả người ra sau. Có nghĩa là tôi bằng lòng với việc đời sống không mang lại gì cho tôi nữa ư ? Nỗi vui mà bọn nông nô trong lãnh địa tôi được hưởng tôi cũng bị từ chối nữa à ?
Tôi hất đầu tới trước đầy vẻ dọa nạt.
– Tôi không phải là lãnh chúa vùng này hay sao ? Nếu tôi muốn thiếu nữ đó, tôi không có quyền lấy nàng hử ?
– Không ai có quyền chiếm hữu thân xác người khác, ông tu viện trưởng nói chậm rãi. Đó là quyền của Thượng đế mà thôi.
Tôi trợn mắt ngó ông. Tôi được dạy cái luật duy nhất là sức mạnh, nhưng triết lý của ông cũng không hoàn toàn xa lạ với tôi.
– Ngoài ra, Sigismund tiếp lời, cưỡng bức một thiếu nữ kinh sợ anh, và đã thề sẽ tự tử còn hơn để anh ôm ấp, thì mang lại cho anh sự vui thú gì ? Anh biết chắc là với thân hình đang có, anh chỉ chuốc lấy sự hổ thẹn trong lòng. Mà anh còn bỏ qua một việc thực tế khác. Dân chúng đang ta thán, lính dưới tay một số lại về phe Heinrich von Friedfeld; điều anh làm sẽ cho họ cớ để nổi loạn. Tôi nghĩ họ chỉ đang mong một cớ để cầu viện hắn.
Tôi nghiêng người tới trước nữa, gõ nhịp trên bàn với những ngón tay đeo đầy ngọc ngà châu báu.
– Ông bảo coi, Sigismund, tôi nói, tại sao họ ghét tôi thế ? Tôi đã làm gì hại họ ? Tôi luôn cố gắng cai trị họ với lẽ công bằng và sự thật; tôi cho họ ăn trong lúc có nạn đói, tôi bảo vệ họ khỏi nạn cướp bóc, vậy mà dân chúng không vừa lòng.
Tôi nhếch mép, lấy tay đập trán.
– Sao tôi không chết trong bụng mẹ cho xong ? Đi tới đâu ai cũng ghét, con nít thấy bóng đã khóc la chạy trốn; đàn bà thà chết còn hơn hơn để tôi đụng; thuộc hạ bầy mưu phản loạn dù tôi đã chúng trọng hậu; ngay cả chó cũng lùi và ngựa ghét tôi cầm cương. Phải chi họ biết là tôi yêu quý cả người lẫn vật. Tài sản, quyền lực, âm nhạc, mỹ lệ, nghệ thuật có lợi gì; hiểu biết rằng tôi mạnh hơn và sáng suốt hơn lãnh chúa bên cạnh mà không thể có tình yêu thì có đáng có không ?
Tôi lấy tay che mặt và rên rỉ.
– Trời hại tôi, trời đầy tôi. Tôi đã làm gì để bị như vậy ? Từ hồi còn nhỏ tôi đã thờ kính Chúa, tìm cách mang lại tiến bộ, an lạc, công bằng cho lãnh địa trong khi bọn khác quanh đây chỉ cướp bóc, giết người. Tại sao Chúa trừng phạt riêng mình tôi, mà tôi lại là kẻ ưa thích thú vui thể xác, ham muốn chúng hơn bất cứ ai ? Tại sao tôi mang hình hài kinh tởm này ?
Sigismund lắc đầu. Tôi biết những câu hỏi không thể trả lời ấy đã luôn ám ảnh ông. Ông là thầy dạy tôi từ nhỏ, và là người duy nhất hiểu được bản tính thật của tôi, nỗi dằn vặt, xấu hổ, kinh hoàng mà tôi phải vật lộn trong thân xác tật nguyền này, cũng như cơn động kinh mà khắp lãnh địa tin chắc là do quỷ sứ gây ra.
Trong lúc ông ráng tìm lời an ủi và khích lệ, tôi đứng dậy, đi cà nhắc qua lại trong phòng.
– Ông Sigismund à, một lát sau tôi nói, đừng tìm nát óc điều không thể giải thích được. Chúng ta phải giả dụ là Chúa biết việc Ngài làm, nhưng ở thế giới này không có công lý hay điều gì hợp lẽ. Câu hỏi của tôi không có trả lời, mà tôi cũng không mong được trả lời. Trời đầy tôi, sống cũng như chết. Có thể điều họ nói là đúng, tôi là bộ hạ của Satan. Nếu vậy, tôi làm việc bậy bạ nào lại chẳng được ?
Tôi đột ngột dừng lại, vung tay lên đầu.
– Tôi thề có trời, nếu Satan có thể chữa thân hình quái quỷ này và khiến cô gái thương tôi, tôi sẽ ... tôi không nói hết câu mà ra cửa sổ nhìn xuống phố phường ngoài kia, tay nhịp lên thành cửa sổ.
Nhưng Sigismund đã tới bên cạnh tôi trong tích tắc, đặt tay lên vai tôi.
– Carl, anh điên rồi ! Rút lại câu nói ngay.
Tôi không nói gì và ông nhỏ giọng, hỏi đầy vẻ kinh hoàng.
– Vậy lời đồn là anh đang tập ma thuật, liên lạc với quỷ dữ, có đúng không ?
Tôi giơ tay lên trời.
– Tiếng tăm tôi chỉ còn thiếu chuyện đó thôi ! Họ nói còn sớm quá, tôi chưa làm vậy.
Tôi nhăn trán, cắn môi.
– Ma thuật à ? Việc đó nghĩa là gì ? Ông biết nhiều về Thượng đế, đáng lẽ ông phải cho tôi biết vài điều về quỷ dữ, kẻ thù của Thượng đế chứ !
Tôi cười khinh miệt.
– Nhưng tôi chắc ông không biết nhiều như ông làm ra vẻ vậy, bằng không ông làm ơn giải thích tại sao Chúa lại đùa giỡn tôi, cho tôi cái lưng gù gớm ghiếc rồi khi tôi tìm cách sửa nó ngay lại nổi giận ?
– Đó là ý Ngài, Carl, như tôi đã nói với anh trăm lần. Làm sao chúng ta hiểu được ý Ngài ? Ngài thương yêu chúng ta, vì vậy chuyện gì xẩy đến cho anh cũng đều tốt lành, tôi tin vậy. Còn việc chơi với quỷ sẽ làm lợi gì cho anh ? Anh có chịu bị phạt vào hỏa ngục đời đời chỉ để có mối lợi nhất thời không ? Chúng ta chỉ sống một kiếp trên đời, mà trong kiếp ấy phải dọn linh hồn để hoặc vào thiên đàng hoặc địa ngục.
– May phước là chúng ta chỉ sống có một lần, tôi la to. Sống kiếp nữa là địa ngục với tôi. Thôi, làm sao tôi cũng không thoát khỏi địa ngục, sống hay chết.
– Anh đi hành hương xem sao, vẫn còn nhiều thánh địa có phép lạ xẩy ra ...
– Rồi để đất tôi không ai canh giữ à ? Mà tôi chợt nghĩ, hẳn dân chúng hài lòng hơn nếu Adalbert thế chỗ tôi.
Sigismund nhăn trán suy nghĩ.
– Ai đồn thế ? Ai đã nói với dân chúng là anh yêu thầm Elsa ?
– Làm sao tôi biết ? Ai cũng ghét tôi cả.
– Tôi thấy linh mục Niedhart có vẻ muốn nhiều quyền hành. Hắn rất quý Adalbert, mà cậu nhỏ thì mê mệt hắn. Chuyện rất hợp ý hắn nếu anh bị giết và Adalbert lên thay.
– Tầm bậy ! Tôi la to. Coi nào, ngoài ông thì hắn là người thân nhất của tôi. Chính hắn ... tôi ngưng bặt.
– Là người đầu tiên dẫn anh tới nhà Elsa trong rừng lúc anh đi săn.
– Thì đã sao ?
– Chẳng sao hết, chỉ trừ điểm là nó gợi nơi anh nỗi cuồng vọng muốn chiếm hữu nàng, làm anh kinh sợ thêm điều bất hạnh của cơ thể mình, vì nàng ghê tởm anh.
– Ông luôn luôn ghét hắn.
– Không ghét, mà sợ. Hắn là tu sĩ sôi nổi quá, đầy tham vọng. Tôi tin chắc hắn đi tu chỉ vì thấy đó là cơ hội duy nhất tiến thân trong đời.
– Không phải đa số người làm vậy ư ?
– Tôi nhìn nhận có một số như thế; nhưng thường khi nét đẹp của chân lý làm họ hết ngu xuẩn, còn hắn tôi sợ không được như vậy. Carl này, tôi tin chắc hắn là kẻ thù của anh. Tôi xin anh, phải dè chừng khi đối đãi hắn. Kẻ thù anh mạnh lắm, anh ngã thì đó là thảm họa. Adalbert dễ thương, nhưng chưa tự chủ thì làm sao có thể trị người khác, nếu anh có thương dân ...
– Thương ! tôi nhại lời ông. Thương thì có lợi gì ? Tôi không thấy có gì đáp lại mà chỉ thấy sự ghét bỏ, hận thù. Tôi bảo ông là ai cũng nguyền rủa tôi mà ... Tôi muốn tình yêu, tôi muốn an lạc, tôi muốn những món quà của Chúa mà bị từ chối mọi việc. Chúa là kẻ thù của tôi !
Sigismund giơ tay.
– Coi chừng, Carl, nói vậy phạm thánh.
– Phạm thánh ? Tôi cười. Vậy để Chúa khiến sét đánh chết tôi đi ! rồi với cử chỉ dữ tợn, tôi đi ra khỏi phòng.
Như con thú điên dại, tôi khập khễnh đi xuyên qua lâu đài. Lính bước lui trước mặt tôi, thì thào với nhau. Họ sợ tôi, hình dung cổ quái, cơn động kinh, tánh lạnh lùng, đã tách biệt tôi với họ. Cuối cùng tôi ra tới khu vườn dưới chân thành. Ở đây là sự bình an. Tường xám trên cao có dây leo mọc đầy. Cỏ mượt như nhung lấm tấm hoa cúc, khe hở nào cũng có hoa và một bầy chim, biết rằng tôi mỗi ngày đều có thức ăn cho chúng, bay xuống đậu không sợ hãi trên tay, vai. Tôi nghĩ một cách cay đắng rằng đây là sinh vật duy nhất không màng cơ thể xấu xí của tôi, nhưng chúng chỉ thích tôi vì tôi có món cho chúng.
Bên ngoài dựa vào tường đá của lâu đài là phố thị, ngói đỏ và xám, đường phố quanh co lên xuống, cây nở rộ hoa trắng như tuyết, khói bốc vào trời đầy mùi hương của núi rừng. Xa nữa là con sông lượn vòng như sợi chỉ bạc, rồi tới khu rừng. Tất cả những điều này là của tôi, phố xá, làng mạc, ruộng vườn, chỗ tôi cai trị và che chở, của tổ tiên thật đáng yêu.
Nhưng tôi không cảm thấy vui sướng chút nào, khác với lời Sigismund nói là ai đầy tình thương của Chúa sẽ tìm thấy nỗi vui trong việc làm. Vui ? Trí óc tôi quay về thân hình cô gái quê Elsa, ngây thơ, yêu kiều, hai thắt bím thả dài xuống đầu gối, mắt xanh biếc, nàng cười như chim hót. Tôi muốn nàng, tôi nắm chặt tay và rên thầm. Tôi luôn luôn dửng dưng với đàn bà, chỉ bận tâm việc canh phòng và cai trị. Như vậy mà khôn, giờ tôi bị thương nặng bởi tôi biết chắc sự vô vọng và khùng điên của niềm mơ ước.
Có tiếng động sau lưng. Lũ chim bay lên cành cao. Tôi quay lại và thấy Niedhart, viên tu sĩ, đang lại gần.
Tôi không biết lúc ấy có nên chào hắn hay không, nhưng chợt nhớ lại đây có thể là kẻ duy nhất mang lại được chuyện tôi ước ao.
Viên tu sĩ nhoẻn miệng cười. Hắn có gương mặt lạ lùng là không để lộ cảm tình gì, như đeo mặt nạ che dấu điều hệ trọng nhưng nó vẫn cứ lộ ra. Mới trông tưởng hắn là người tầm thường, chỉ trừ uy lực mà ai gặp hắn cũng cảm thấy ngay. Thuở ấu thơ của hắn thật tệ và trong một phút cảm động tôi mang hắn về nuôi, cho hắn vào tu viện và để làm thầy dạy Adalbert, em tôi.
Giờ nhớ lại câu chuyện với Sigismund, tôi nhìn kỹ hắn. Tôi luôn luôn nghĩ là Niedhart biết ơn tôi và là bạn tôi, nhưng cảm thấy ngay trong lòng là không phải vậy. Sigismund nói đúng. Kẻ này chỉ muốn có quyền lực. Nếu hắn có mà tôi vẫn là chúa khu này thì cũng được, bằng không hắn rất sẵn lòng lập mưu hạ tôi. Đây cũng là dịp tốt, tôi bảo mình, để tìm hiểu xem hắn đang mưu mô gì, nhưng làm sao thì làm, tôi phải luôn luôn nắm phần chuôi.
Tôi đột ngột quay sang hắn.
– Tại sao ông ghét ta và âm mưu chống ta ? tôi hỏi. Nếu ông đặt Adalbert thế chỗ ta, hắn sẽ không thể chống cự von Friedfeld quá một tuần. Việc gì ta thiếu nhưng ta giỏi chiến trận; nếu muốn ta quật ngã được hết những bọn lãnh chúa khác, và ông biết vậy. Ta đã mang lại bình an sau trăm năm rối loạn ở đây, và mục đích của ta là nhờ vậy minh triết với nghệ thuật có thể nẩy nở được. Sao ông chống lại việc ấy ?
Câu hỏi thình lình làm hắn bật ngửa, nhưng rồi cười vô nghĩa.
– Tôi nào có chống, tôi hoan nghênh là khác, và tôi lại tìm cách giúp ngài đạt được chuyện ấy. Sao ngài nói tôi ghét ngài ? Tôi là bạn tốt nhất của ngài.
– Không, ta không có bạn trừ Sigismund, và may ra thì có lũ chim.
– Ngài khiêm tốn quá, ai biết lòng rộng rãi của ngài cũng sẽ yêu mến ngài nhiều. Chỉ có thân xác bất toàn làm ngăn trở, người dân không tận tụy hay kính yêu ngài chỉ vì họ coi đó là sự trừng phạt của Chúa, là dấu hiệu của ma quỷ. Mà chuyện ấy, hắn nói thêm vì tôi không trả lời, chữa không khó như ngài tưởng.
Tôi cười.
– Ta đã đi tới biết bao nhiêu nhà thờ làm phép lạ trong nước rồi. Hình như Giáo hội không giúp được gì, chỉ biết khuyên ta kiên nhẫn và làm lành, hai chuyện không dẫn tới đâu.
– Tôi đã nói với ngài, viên tu sĩ bảo, nhìn quanh và hạ thấp giọng, còn những quyền lực khác ...
– Phải, quyền lực của ma quỷ.
– Không hẳn vậy. Quyền lực của thiên nhiên. Tôi sai khiến được chúng ...
Tôi ngó hắn đăm đăm. Chúng tôi đã nói chuyện như thế này mấy lần rồi, nhưng chưa bao giờ hắn nói rõ như thế; dù có những lời đồn nguy hiểm là tôi mê say tà thuật - lời đồn ấy là chuyện rất thường trong thời tôi sống -, điều duy nhất tôi làm là tò mò muốn biết những quyển sách lạ lùng Niedhart cho tôi mượn nói gì. Tôi đọc nó thích thú cũng như bao sự hiểu biết mới mẻ về bất cứ ngành gì. Tôi không biết có nên tin hắn chăng, nhưng nếu có cơ hội dù khó tin và ít thế mấy, từ chối thì có ngu không ?
Tôi trìu mến nhìn phố xá, thung lũng có mùa màng sắp gặt. Dân chúng là con cái tôi, tôi thương yêu họ, cho dù họ trốn chạy và nguyền rủa tôi vì mê tín. Tôi tưởng tượng mình được thẳng người, có vợ đẹp đẽ và bầy con nối dòng. Ai cũng sẽ yêu quí, vâng lời tôi, khi ấy tôi sẽ mang lại cải cách mà bây giờ vô phương làm; họ cưỡng lại vì chúng có vẻ lạ và họ chưa quen, nhưng thật ra chỉ vì người chủ xướng là tôi. Nếu nhờ một phép lạ nào đó tôi trở nên người bình thường, dân chúng cho rằng tôi được Chúa phù hộ, sẽ sẵn lòng tin và nghe lời tôi.
– Nếu ta nhờ những lực ma quỷ, tôi lý luận với mình, cũng là để làm chuyện lành cho dân chúng thôi, chắc chắn Chúa sẽ hiểu và tha thứ cho ta.
Viên tu sĩ không nhúc nhích. Hắn cũng nhìn vào khoảng không, nhưng tôi biết hắn đang mơ tưởng việc thống trị thế giới. Trong khi tôi muốn có quyền lực để giúp dân chúng, chữa lành cho họ, hắn đã thú thật với tôi là hắn có tham vọng làm Giáo hoàng ! Kệ, cứ để hắn mơ ! Tôi không muốn thống trị thế giới, lo chuyện trước mắt cũng đủ hết hơi rồi.
Sự trầm ngâm của hai chúng tôi bị tiếng chó sủa, tiếng nhạc đeo cổ lừa phá vỡ. Tôi nghiêng người qua tường. Phía dưới tôi thấy cầu treo đã hạ và một đoàn người kéo ra.
– Ông tu viện trưởng đi về, tôi nói.
– Tôi sợ, gã tu sĩ bảo, ông không hài lòng với tôi, tuy tôi không biết mình đã làm gì quấy. Mới cách đây một giờ ông đã la tôi.
– Ông không làm vậy mà không có lý do. Tôi nói một cách khô khan. Ông vừa công bằng, vừa khôn ngoan. Nếu không nhờ ông, tôi nói thêm, ta không biết mình đã còn sống chăng.
Niedhart đến sau lưng, đặt tay lên vai gù của tôi.
– Ngài chưa sống mà, hắn nói khẽ, ngài chưa biết sống là gì. Hắn vẫy tay mơ hồ, như muốn chỉ một thế giới đầy ánh sáng, mầu sắc, vui tươi và thương yêu. Nhưng đời sống chỉ chờ lệnh ngài ... Chỉ cần một cuộc thí nghiệm nhỏ thôi, và tôi tin chắc ngài sẽ thẳng lưng. Tại sao ngài do dự ? Một tuần nữa là trăng tròn, làm lễ trong phố không tiện nhưng tôi biết có một nhà thờ đổ nát ở phía tây khu rừng, đi về hướng Fahlstedt.
– Đó là chỗ - nàng ở. Tôi buột miệng nói.
– Cách đó chừng một dặm. Hắn ngần ngừ. Tôi sẽ phải thuyết phục nàng tới, vì chúng ta cần nàng.
Tôi quay phắt lại.
– Không bao giờ ! Ta không cho phép !
– Ngài không muốn chiếm tình yêu của nàng sao ? Muốn được vậy cuộc lễ phải có nàng; nhờ nghi lễ mà vận mạng của ngài và của nàng gắn bó với nhau.
Hắn mỉm cười.
– Ngài nên nhớ rằng, nàng sẽ thấy ngài trở nên đẹp đẽ, trong một phút giây có thể nàng sẽ thấy được nét thật của linh hồn ngài. Vậy cho dù cuộc thí nghiệm không thành công, dù ngài không thay đổi hình dạng, nàng sẽ không bao giờ quên được cảnh tưởng đã thấy và trái tim sẽ luôn luôn thuộc về ngài, nàng sẽ biết tâm hồn ngài ra sao trong hình thể này.
Tôi thở dài. Trong phút ngắn ngủi trọn người tôi lâng lâng, không còn chút đau khổ. Được yêu ! Được thương !
Niedhart hẳn đã thấy diễn tiến nơi tôi.
– Ngài đi chứ ? hắn dụ thêm. Ngài không cần phải làm gì thêm nếu cuộc thí nghiệm này không thành công.
Tôi nóng nẩy đi tới lui, tôi thấy hằng trăm lý do nên thử, mà chỉ có vài lý do chống, như luật giáo hội cấm chơi với quỷ và dọa ai làm vậy sẽ rơi vào hỏa ngục đời đời. Một lúc lâu tôi không trả lời, sau cùng tôi quay lại.
– Lần này ta đi với ông, tôi nói, để tự mình xem lời ông nói thật được mấy. Nhưng ông phải thề với ta là Elsa không bị hại và không bị rủi ro gì.
– Tôi thề với ngài. Nàng sẽ không biết mình được yêu cầu làm việc chi. Ngài cần rõ là với nghi lễ như thế phải có một cô gái trẻ, ngây thơ làm đồng cốt thì quyền lực mới xuống. Tôi tin cô làm đồng cốt được, mấy hôm nay tôi đọc nhiều về chuyện này trong những sách rất xưa mà nhờ may lắm mới có. Cũng cần ba người nam và Adalbert sẽ dự. Ồ, đừng sợ ! Tôi mà làm hại hắn ư ? Tôi yêu hắn còn hơn yêu sự sống trong tôi. Mà cho dù có nguy hại, phần thưởng không phải đáng giá bội phần sao ? Ngài chưa biết tôi nhắm tới việc gì nếu thành công. Hắn đứng bật dậy, ngửa đầu ra sau. Tôi sẽ thành nhà lãnh đạo của nhân loại - tôi sẽ thay đổi thế giới, trong tay đầy quyền năng, giầu có. Hắn thích chí cười lớn.
Trong những ngày sau đó, tôi bị dằn vặt khổ sở vì lòng sợ hãi và chưa nhất quyết. Ngủ không được, mà ngủ thì nằm mộng thấy tôi dự những buổi lễ đầy hình ảnh quái dị, kinh khiếp, khiến tôi tự hỏi đó có phải là lời cảnh cáo của Chúa, hay đó là địa ngục cho tôi thấy trước sơ sơ. Từ khi có trí nhớ tôi có cảm giác là mình bị quỉ dữ bao vây, chúng nhẩy lên người cấu xé đầy thù hằn. Bây giờ chúng như tiến lại gần hơn, chận không cho lối thoát. Nhưng tư tưởng chẳng bao lâu được thẳng lưng và Elsa sẽ yêu thương làm tôi bớt sợ. Ngày kia đi săn, tôi đến gặp nàng, hy vọng mà không dám hy vọng là nàng chịu tiếp tôi; nhưng mới thấy gương mặt cổ quái và cái lưng gù, nàng đã úp mặt sát tường, hất luôn món quà tôi mang đến. Tôi ra về, lòng càng nhất quyết làm chuyện đã định.
Ngày trước hôm rằm, tôi đi lễ nhà thờ, nhưng trong lúc cầu nguyện tôi thấy quỉ dữ đang ở bên cạnh, biến những lời khẩn cầu của tôi thành chuyện cợt nhã, trò hề.
Sigismund dường như xa cách với tôi biết bao khi ông đưa tôi xem một phần cuốn sách về sự nguyện gẫm mà ông đang viết, và những bản thảo mà các tu sĩ đang nắn nót. Ông bước trầm tĩnh cạnh tôi; tôi thèm muốn như vậy biết chừng nào. Ông không ước gì hơn được làm tu viện trưởng ở đây, dạy dỗ, lo lắng cho tu sĩ; kiếp này ông sung sướng quá. Còn tôi - tôi tìm đâu ra hạnh phúc ? Khi chúng tôi ra vườn nơi các tu sĩ đang dẫy cỏ, trồng thuốc, xới đất tươi mát, lòng tôi chợt khao khát rất đỗi sự mỹ lệ, bình an. Tôi chào ông, người tôi yêu mến, với nhiều cảm xúc hơn bình thường. Như vĩnh biệt.
Tôi chưa nói chuyện với em tôi về việc sắp làm tối nay. Nhưng hôm nay thấy hắn đi rừng về, con chim ó hắn thương nhất đậu ở cổ tay, tôi thấy phải bỏ vẻ lịch sự lạnh lùng mà cả hai chúng tôi dùng với nhau.
– Adalbert, tôi nói, linh mục Niedhart có nói với em về mục đích thật của tối nay không ?
Em tôi hạ mắt như có ý dấu chuyện ngượng ngập. Tôi thèm muốn nhìn thân xác cao lớn, mặc y phục bóng lộn mầu xanh và vàng, chân mang ủng vừa vặn, vớ thanh nhã mầu đỏ, gương mặt xinh đẹp, da sáng, tóc nâu. Được như vậy sướng biết chừng nào ! tôi nghĩ thầm.
– Em nghe nói là, lễ để chữa bệnh cho anh, Carl. Nó bảo thế.
– Đúng vậy, tôi ngập ngừng. Nhưng anh không muốn em bị rủi ro để lo cho anh. Linh mục Niedhart chưa nói hết cho em nghe; ông bảo sẽ kêu gọi những lực huyền bí, và nếu cuộc lễ bị khám phá tất cả chúng ta sẽ bị hỏa thiêu vì tội làm phù thủy, liên kết với Satan.
Mặt thanh niên hơi rúng động, nhưng hắn can đảm hất đầu.
– Em không sợ. Ông bảo vệ được chúng ta. Mắt hắn rực sáng. Anh thẳng lưng lại thì hay biết chừng nào, ngoài ra, hắn cười sáng rỡ, linh mục Niedhart kêu em đi vì ông bảo nó có thể giúp em có đầy uy lực, và ông rất muốn điều ấy thành. Má hắn đỏ rần khi hắn nồng nhiệt tiếp, làm gì cho linh mục em cũng không từ.
Nghe mấy câu đầu tôi cảm động sâu xa, nhưng tới câu cuối gương mặt tôi sầm lại. Tình thân của nó với linh mục làm tôi e sợ, và cũng bởi cái tham vọng Niedhart đã gieo vào lòng chú nhỏ.
– Vậy anh nói nữa cũng thừa, tôi lạnh lùng bảo, xem ra ý em đã quyết.
Tới ngày rằm Niedhart và tôi đi chung lại chỗ hẹn. Adalbert đã đi trước, đón Elsa và mang nàng tới nơi hành lễ.
Tôi thích yên lặng đi, nhưng Niedhart bàn về kế hoạch của hắn. Hắn đã dụ Elsa dự lễ sau khi làm nàng tin là việc ấy có lợi cho dân trong vùng, và như vậy là giúp giáo hội.
– Lòng kiêu ngạo của nàng được vuốt ve, hắn nói khô khan, thấy mình là kẻ được chọn để làm việc cao đẹp ấy. Nó làm nàng thấy mình trội hơn hẳn những cô gái khác chưa đủ tốt lành để được giao phó chuyện này. Bá tước Carl, cứ gợi lòng kiêu hãnh là ngài làm được mọi chuyện. Nó đúng là món quà của quỷ.
Lúc ấy tôi ghét hắn thậm tệ.
– Tôi cũng phải hối lộ nàng, hắn nói và cười. Hứa cho nàng của hồi môn hậu hĩ, tôi nghĩ ngài sẽ giúp tôi. Bắt buộc phải giữ nàng kín miệng, một lời bay ra cũng đủ giết chúng ta. Nhưng tôi nghĩ nàng khôn ngoan. Chỉ có bà mẹ là lắm chuyện, mà làm gì cũng bị rủi ro không ít thì nhiều, tránh không được.
Nghe vậy tôi muốn quay về, nhưng nghĩ dù không có tôi hắn cũng sẽ làm lễ, ít nhất tôi có thể chống đỡ cho cô gái khỏi bị nguy hiểm. Lòng nghi ngờ của tôi đối với Niedhart càng tăng thêm với lời của hắn.
Sau cùng chúng tôi đến chỗ nhà thờ đổ nát. Adalbert đã ở đó, đằng sau hắn dưới bóng trăng là Elsa. Tôi chưa bao giờ thấy nàng đẹp như vậy, tóc không cột xõa dài tới gối như tấm lụa vàng, chân trần, tay khoanh ngang ngực. Nàng giật mình khi thấy tôi vì không được báo có tôi dự lễ. Lập tức nàng tỏ ra nghi ngại. Nhưng Niedhart nói êm ái.
– Bá tước muốn dự lễ này để cầu an cho dân chúng, ngài và em ngài tới đây cầu giáo hội cho cuộc lễ thành công.
Nàng cúi đầu ưng thuận.
Chúng tôi đứng yên lặng, hắn bắt đầu nói lắp bắp những câu lạ lùng, ngân dài môi mím chặt. Elsa đứng yên, gương mặt đầy ánh trăng. Viên tu sĩ chạm người nhưng nàng không nhúc nhích. Mắt trừng trừng.
– Tới đây, hắn ra lệnh.
Nàng mất hồn bước tới, chúng tôi theo sau.
– Cởi áo nàng ! hắn bảo.
Khi y phục Elsa rơi xuống đất, tôi muốn thét to vì vẻ đẹp người nàng, lòng tham dâng lên cuồn cuộn, tôi biết mình sẽ không từ bỏ điều gì để chiếm được nàng.
Chúng tôi đặt Elsa lên phiến đá, viên tu sĩ vẽ bùa chú chung quanh, và một lọ nhỏ dưới chân tỏa ra mùi hương trong không. Hắn lôi trong túi ra cái đầu lâu và những vật gớm ghiếc khác. Đầu lâu hắn đặt lên ngực cô gái, hắn bôi một thứ dầu lên trán, rồi đặt những vật khác lên lòng bàn tay, chân và miệng nàng. Một chất liệu được thoa khắp người nàng, mùi hôi nồng nặc.
Nỗi kinh sợ trùm lấy người tôi khi hắn bắt đầu hành lễ. Tôi có cảm giác kỳ lạ mình là hai người, một phần tách biệt dửng dưng, trong sáng, mắt mở rộng đứng chực hờ với lưỡi gươm sáng rực; phần kia tội lỗi, thân hình méo mó xấu xí, liếm môi đầy thèm muốn, sẵn sàng nhẩy vồ xâu xé nàng. Sự tranh chấp ngày càng tăng, tôi cảm thấy mơ hồ sau cùng mình phải làm một quyết định chót và kinh khủng. Và tôi biết mình sẽ là điều nào trong hai nhân vật này.
Niedhart đứng ở đầu cô gái, tay giơ cao miệng lầm thầm thần chú. Người cô gái rung động, môi nàng chậm chạp hé, một giọng khàn khàn phát ra rồi tắt ngang. Hắn càng đọc dữ, gào thêm. Môi Elsa lại hé mở; mặt nàng thay đổi dần, mắt trắng xát mà ánh vẻ ma quái. Nét mặt càng lúc càng xấu xa, môi nhăn kinh khiếp, bọt mép sùi hai bên miệng. Cuối cùng, có tiếng nói.
– Ta đây, các ngươi muốn chuyện gì ?
Tôi thấy không còn chút cảm quan nào, vì một làn sóng đen trào dâng từ chính người tôi. Giọng nói ấy, đó là gì vậy ? Phải là giọng nói của quỷ dữ đã từng hành hạ tôi, cấu xé thân xác tôi, chiếm ngụ nó, rồi bây giờ chiếm ngụ luôn cả thân xác cô gái tôi yêu ? Tôi tưởng như thấy chúng động đậy, đen đủi, quỷ có sừng, có đuôi, há miệng đỏ lòm. Chúng sẽ chữa tôi hết bệnh ! Tôi rùng mình rên rỉ. Mồ hôi lạnh ngắt nhỏ giọt.
Tôi lại nghe có tiếng nói.
– Carl, lại đây. Carl von Schwartzbau, hãy nói bá tước muốn gì. Đừng sợ chi.
Tôi thấy mình bị cuốn hút càng lúc càng tới gần người Elsa.
Giờ đây tôi đứng nhìn xuống người nàng, xuống cái thân thể biến dạng, đầy biểu tượng của những lực đang chực hờ nghe lệnh tôi, cái thân bóng nhẫy mồ hôi. Tôi ngắm, và nỗi hoảng kinh chậm chạp biến mất, nhường chỗ cho sự hiểu biết tràn ngập trong tôi như ào ạt từ óc tháo ra. Những lực ấy là chính một phần thân tôi, khi nhận biết chúng, chấp thuận và nghe theo chúng tôi sẽ thành chủ nhân sai bảo. Mọi ước vọng của tôi sẽ được thỏa mãn, tôi sẽ mạnh mẽ, cao lớn, khiến cô gái này yêu thương tôi. Quỉ thần mà chúng tôi triệu về có thể cho tôi tất cả những gì hằng khao khát.
Hân hoan ngập lòng, tôi giơ tay mừng rõ và nói to, giọng ngân dài.
– Ta muốn thoát khỏi sự tù túng của thân thể xấu xí, dị dạng này, ta muốn thiếu nữ này thương yêu ta, ta muốn có thể mang lại bình an, vui vẻ cho dân để họ quý mến ta. Ta muốn, hỡi quỉ thần, cho ta trên hết thẩy điều bí mật làm sao có được hạnh phúc.
Trong một lúc tôi đứng đó, thơ thới vì nét cao cả trong ước mơ của mình. Chung quanh tôi hoàn toàn yên lặng, cả thế giới ngưng thở đợi chờ.
Tôi nhìn nàng lần nữa, thân thể trắng ngà, nằm bất động, mắt thất thần. Elsa ! Và đột nhiên tôi rúng động vì ghê tởm, thấy con người đẹp đẽ mà tôi biết đã bị ma quỷ chiếm ngụ. Ước vọng tắt ngấm. Tôi không còn là hai mà là một người; không còn đồng hóa với hình thể vặn vẹo bị ma quỉ cấu xé, tôi quên chính mình và chỉ còn nghĩ tới nàng, làm cách nào cứu nàng, nghĩ tới em tôi đang mở to mắt ngạc nhiên, ngó mà không thấy.
Tôi vung tay, Adalbert thối lui bước ra ngoài vòng, viên tu sĩ hét to. Tôi không biết chuyện gì xẩy ra, có điều gì đó xé toạc tôi từ đầu tới chân, moi móc ruột gan, vò nát trí óc, cào cấu thân thể tôi. Có tiếng kêu điếc tai. Máu xối xả làm tôi mù, cả thế giới đổ ụp lên đầu tôi ! Nhưng dùng hết sức lực, tôi gạt phăng những ký hiệu và đồ vật khỏi ngực, tay, chân Elsa; giật lấy áo khoác tôi trùm kín thân thể trắng ngần cùng lúc với đám mây che phủ mặt trăng.
Chung quanh tối đen, nhưng tôi thấy sự việc như qua tấm màn máu. Niedhart sùi bọt mép lắp bắp, Adalbert lăn lộn trên đất kêu la, Elsa thở từng hơi dài, mắt đã nhắm, đầu vật vã bên này rồi bên kia. Tôi nằm đè lên người nàng, dùng tay phủ thân thể. Mắt nàng mở và tôi thấy nó đầy sự kinh khủng gớm ghê, nhưng tôi mừng vì mắt là mắt nàng trở lại.
Tôi ngẩng mặt, nhìn vào bóng đêm và khóc nức nở, bất lực cùng cực.
– Lạy Chúa, lạy Chúa, xin thương xót con.
Tỉnh lại tôi thấy một cơn gió lạnh đầy mùi nhựa thông thổi qua, tiếng lá rì rào như êm ái ban phước lành. Tôi đứng dậy chậm chạp và nhìn quanh. Em tôi và viên tu sĩ đã đi mất. Cái áo khoác rơi xuống nhưng tôi nhặt lên, trùm tới cằm nàng như để chống lại ma quỷ. Mà chuyện đó không cần nữa, vì nhà thờ vắng lặng. Elsa vẫn còn mê, thỉnh thoảng rên rỉ nhỏ, và tôi bắt đầu nghĩ cách đem nàng về nhà sao cho an toàn. Phải chi hai người kia đừng chạy.
Trong lúc đứng đó suy nghĩ, tôi chợt nghe một âm lạ trộn với tiếng gió trong rừng. Nó lên rồi xuống, tiếng hò đứt đoạn có lẫn nét đe dọa. Càng lúc nó càng lớn, lan ra trước như trận bão sắp tới, đến từ hướng phố xá. Giờ tôi có thể nghe ra tiếng la to, tiếng hét, tiếng của đám đông phẫn nộ.
Nhanh như cắt tôi kéo Elsa đứng dậy. Dù nàng vùng vẫy phản đối, tôi lôi nàng chạy ra khỏi nhà thờ về bụi cây rậm nhất. Tiếng reo hò đã tới chỗ chúng tôi, ngập đêm đen. Vừa đến bụi cây thì những người đi đầu tới bìa rừng. Họ la toáng vì khi nàng chạy, áo khoác rơi xuống và thân hình trần truồng của nàng lộ rõ trong bóng đêm.
– Mụ phù thủy ! họ thét lên, mụ phù thủy ! Giết mụ phù thủy !
Tôi đẩy nàng ra sau lưng và rút dao.
– Chạy mau ! Tôi nói to.
Nàng vội chạy. Tôi lẹ làng đi ra khỏi bụi cây để chận đầu họ, nhưng tôi không biết rằng trong bụi cây chằng chịt, họ không thấy tôi.
Vài người đuổi theo tôi nhưng trong khi vật lộn, tôi biết với sự kinh hãi chắc chắn là Elsa không thoát, vì đám đông chia hai, đàn bà đàn ông rượt đuổi nàng trong rừng, vẫn la ó.
– Mụ phù thủy ! mụ phù thủy ! Giết mụ phù thủy !
Tôi vật lộn một cách tuyệt vọng, không thiết gì nữa. Một người té, trong lúc tôi đánh người khác, kẻ thứ ba chạy đi gọi tiếp cứu. Tôi đâm vào ngực kẻ thù nhưng hắn té xuống, đè lấy tôi và cả hai lăn tòm xuống hố. Tôi đập đầu vào hòn đá rồi ngất đi. Tiếng reo hò chung quanh làm tôi tỉnh lại. Tôi ráng lúc lắc nhưng không thể đẩy xác chết trên người lăn đi chỗ khác, vì nơi ấy hẹp quá. Từ chỗ nằm trong bụi rậm, tôi có thể thấy khu đất bên trên đầy bóng người, đen đủi, nhộn nhịp, có ánh đuốc chập chờn. Đám đông tụ lại rồi dãn ra, và ở giữa đám tôi thấy hình dạng trắng của Elsa, rũ liệt giữa hai người đàn ông. Một mụ già chạy ào tới, dùng móng tay cào xé mặt nàng, người khác bắt chước; trong một lát nàng té xuống biến mất, bị sự cuồng loạn của hai người đè bẹp, rồi họ lôi nàng trở dậy.
– Thả nó xuống sông ! đám đông kêu to, coi mụ nổi hay chìm ! Mụ phù thủy ! mụ phù thủy ! thả mụ xuống sông !
Rồi tôi nghe tiếng nàng kêu đau đớn.
– Cứu tôi với ! Làm ơn cứu tôi với ! Không có thật, thương tôi với !
Tôi vật vã như điên như cuồng để thoát khỏi bụi, nhưng chân đau nhói làm tôi muốn ngất; tôi không nhúc nhích nổi, cũng như tiếng reo hò làm át tiếng hét khàn khàn của tôi.
Họ kéo nàng đi xa, tôi thấy một người nắm tóc kéo ghì đầu nàng ra sau, tôi thấy gương mặt trắng của nàng nhễ nhại máu, ngửa lên nhìn trời như để van xin, cầu khẩn lòng thương xót. Chung quanh nàng đám đông như bị quỉ ám, nhẩy múa, reo hò đầy hăng say giết chóc, rồi họ đi khỏi tầm mắt tôi. Tôi nghe tiếng lanh lảnh, đầy tuyệt vọng và chậm chạp như cơn bão rớt, tiếng người chìm dần vào yên lặng.
Trời gần sáng tôi mới thoát khỏi cái hố. Đứng trong ánh sáng mờ mờ tôi chưa biết nên đi đâu. Người còn yếu vì bị đập đầu, chân lại trặc, và sườn nhức kinh khủng.
Về Schwzartzbau thì tôi không dám, vì tôi tin mình đã bị người đi kêu cứu hôm qua nhận mặt, và tôi biết chắc đám đông cũng không đối xử với tôi tốt lành hơn với Elsa. Niềm hy vọng duy nhất của tôi là về tu viện, xin được ẩn náu ở đó, ít nhất không bị chết như nàng.
Nhưng trong lúc đứng đó ngần ngừ, tôi nghe xa xa có tiếng hò reo và tiếng chó sủa. Họ đã cho thợ săn đi lùng tôi.
Ngày ấy tôi biết nỗi kinh hoàng bất lực của những con vật bị săn đuổi. Họ chạy khắp rừng, lội suối, lùng hết mọi ngõ ngách để bắt tôi. Mệt phờ phạc, nửa tỉnh nửa mê vì đau, lo lắng sợ hãi không phải chỉ cho mình mà còn cho em, chưa biết nó đã gặp gì, bị ám ảnh bởi hình ảnh Elsa chết ghê gớm vô tội, tôi lủi đi quàng xiên, chỉ mong được chết mà lại đang trốn chạy cái chết. Càng lúc tôi càng yếu đi. Có lần núp trong rãnh, tôi thấy bọn đi săn chạy ngang. Ở đó chỉ cách tu viện một quãng ngắn nhưng tôi bị chặn.
Tối ấy tôi nằm ngủ giữa những viên đá đầy rêu; tới sáng đột nhiên có con chó lớn từ bụi nhẩy ra mắt hực lửa, miệng mở to. Tôi nhận ra nó trong đội chó săn của mình và gọi tên, nhưng như mọi thú vật khác, nó luôn luôn tránh tôi, và bây giờ hơi tôi không phải là hơi của người chủ được yêu mến, mà chỉ là hơi của áo khoác mà nó được cho ngửi để đi tìm. Tôi phải tận lực chống lại nó. Răng chó ngập vào má tôi, tôi đâm bổ không biết bao lần với con dao săn, đâm rồi đâm nữa. Tôi không nhớ làm sao mình đã giết được nó.
Tôi loạng choạng đi, gần xỉu. Toàn thân đau nhừ, chẩy máu; tôi đưa tay lên ôm mặt rách nát và vừa đi vừa rên rỉ; mắt tôi nóng bỏng nhức nhối. Tôi không thấy rõ, đâm sầm vào cây cối, té vào trúng bụi gai, cây chận ngang đường. Cả thiên nhiên cũng chống lại ta, tôi mê sảng nghĩ. Ta đã yêu rừng, yêu thú vật, giờ chúng thành kẻ thù của ta. Tôi cảm thấy như quả thật trời đã bỏ rơi, và phút cuối đời không còn xa mấy.
Ngày hôm đó chỉ là một mớ hỗn độn trong ký ức; đến tối, nhìn qua đôi mắt đỏ ngầu khiến cho vạn vật mơ hồ không rõ dạng, tôi thấy tòa nhà tu viện bên kia cánh đồng cỏ. Tôi núp trong rừng, ngắm bức tường xám yên lặng. Liệu các tu sĩ sẽ chứa tôi chăng ? kẻ bị lên án đã tập tà thuật ? Liệu tôi đến kịp, và ở đó có yên lành chăng ?
Đang nhìn ngắm, tôi thấy cửa tu viện mở và một tu sĩ bước ra, đi xuống dốc lấy tay che ánh nắng chiều. Chỉ một phút sau tôi đã lẻn vào bên trong.
Tôi đi tới nhà nguyện. Sigismund quỳ ở bàn thờ, chung quanh có vài tu sĩ khác, họ đang mê mải nguyện cầu. Tay dang tới trước, tôi té sấp xuống chân bàn thờ, la to.
– Cứu tôi, cứu tôi.
Trong một khoảng thời gian dài tôi vật vờ giữa sự sống và sự chết. Sigismund cùng vài tu sĩ đã hứa giữ bí mật, lo cứu tôi. Chỉ khi lấy lại được sức mạnh tôi mới biết việc gì xẩy ra. Adalbert thoát chết nhờ núp trong thân cây rỗng, nó về tới lâu đài bằng cửa bí mật, nhưng Niedhart bị bắt.
– Hắn bị đem giao cho nhà chức trách, Sigismund nói, và bị thiêu sống về tội dùng ma thuật. Họ dùng cực hình trước với hắn để xem đồng bọn là ai; nhưng hắn rất can đảm, không khai một lời. Tôi cố gặp hắn, nài nỉ hắn ăn năn hối lỗi, và tôi cũng giơ cây thánh giá cho hắn lần chót, ráng đưa qua lửa cho hắn thấy. Cầu cho linh hồn hắn được cứu rỗi, mong Chúa rũ lòng thương không để hắn bị phạt trong hỏa ngục đời đời.
Tôi rên rỉ.
– Hắn không tệ hơn tôi; làm sao tôi còn hy vọng gì ? Như con chó đã móc mắt tôi, quỉ dữ cũng sẽ cướp linh hồn tôi khỏi thể xác này, làm nó sa địa ngục mãi mãi.
Lúc đó Sigismund mỉm cười.
– Hẳn họ sẽ làm vậy nếu dân chúng tin được. Từ lúc anh mất tích có lời đồn thấy anh và quỷ sứ cùng bay ngang qua sông. Mà có lẽ vậy cũng hay. Họ không chứng tỏ được anh có tội gì; họ không nhận ra anh, nhưng nghi ngờ lắm và không chắc anh sẽ được an lành nơi đây nếu họ biết anh còn sống. Dân chúng yêu Adalbert và sẽ nghe nó, nhưng nó vẫn còn nhỏ. Có nhiều lời đồn là Heinrich von Friedfeld nghe ở đây không yên đã tụ lính dọc theo đường phân ranh hai lãnh địa.
– Mà tôi không thể làm gì, công nghiệp cả đời của tôi bị tiêu tan. Tôi nằm yên một lát. Elsa, cuối cùng tôi nói nhỏ, mọi chuyện sinh ra chỉ vì tôi ham muốn cô.
Sigismund làm dấu thánh giá.
– Cô lại là kẻ vô tội dại khờ; cô thố lộ chút ít cho mẹ và lúc Elsa đi rồi, bà tới gặp tôi. Tôi đã bắt bà phải giữ yên lặng tuyệt đối. Tội nghiệp cô gái, cô phải trả giá đắt, nhưng đúng như anh nhận xét, lòng tham muốn điên rồ của anh là đầu mối mọi việc ... Tội lỗi biết chừng nào !
Tôi vật đầu xuống gối và khóc.
– Tôi không cố ý làm hại ai, tôi nói đứt quãng, càng không muốn làm hại cô. Vậy mà tôi làm gì cũng bị nguyền rủa, trong khi bao kẻ làm điều tàn tệ hơn, vì ý tồi bại hơn, lại được thoát. Còn tôi không thoát chuyện nào. Thà chết sướng hơn.
Sigismund lắc đầu.
– Nói vậy không đúng; dù chúng ta chỉ sống một lần và thân xác rã tan, nhưng nhớ rằng linh hồn bất tử và có thể được Chúa cứu khỏi sa đọa. Có thể Ngài cho anh cơ hội chuộc tội tránh được hỏa ngục.
Một lát sau tôi mở mắt.
– Ông nói đúng. Tôi biết chắc mình phải làm gì. Tôi nghe có một tu viện sâu trong núi, ở đó qui luật nghiêm nhặt hơn mọi chỗ khác, tôi sẽ lại đó ở suốt đời, chôn vùi thân xác dơ bẩn cùng tâm hồn tội lỗi này. Biết đâu nhờ sống đời khổ hạnh, ăn năn hành xác, tôi học được cách diệt ma quỷ đã ám tôi và may ra được cứu chuộc.
Vài tuần sau khi trời hửng sáng, tôi đã sẵn sàng ở cổng tu viện. Sigismund và tôi khóc khi cả hai ôm nhau giã biệt. Chúng tôi biết sẽ không bao giờ còn gặp nhau nữa. Lúc quay đi tôi nhìn ngang qua thung lũng lần cuối, thành phố nhỏ mà tôi yêu có giòng sông bao quanh, vườn cây ăn trái đang trổ hoa, tòa lâu đài tôi đã sinh trưởng. Tất cả là vật Thượng đế đã giao phó cho tôi, và tôi thấy như mình đã phản bội Ngài. Tôi không dám nhìn lại Sigismund lúc ấy đứng cạnh, chung quanh có các tu sĩ, mà cúi đầu cương quyết đi về hướng núi.
...
Điều gì xẩy ra cho Carl, tôi hỏi thầm, bị giam chặt trong bốn bức tường đá lạnh lùng của tu viện, khi hắn là người tha thiết với đời, muốn biến giấc mơ đầy sự tiến bộ và hạnh phúc của mình thành chuyện thực cho dân ? Tôi không tin là hắn đã tìm được sự bình an hay hạnh phúc ở đó. Nhưng ít nhất, tới bây giờ tôi hiểu tại sao trong kiếp này, tôi luôn luôn chán ghét thời Trung cổ và đời sống tu hành khổ hạnh; cũng như vì sao tôi bị dằn vặt đau đớn cho ai bị tật nguyền hay xấu tướng. Nó là kết quả của điều giống như sự hồi nhớ trong tâm tư. Càng suy nghĩ chừng nào, sự việc càng sáng tỏ với tôi là nhiều điều thích và không thích, những nỗi sợ hãi, cảm xúc và đặc tính kỳ cục của mỗi cá nhân mà những nhà phân tâm học đang bận rộn đặt tên hiện giờ, rất có thể đã không nẩy sinh từ nguyên nhân ở kiếp này, mà là phản chiếu của những chuyện quá khứ, theo dòng karma tụ lại trong trí.
Không phải tính lý tưởng hóa của Carl là do việc một giác ngộ nào đó từ quá khứ đã có thể ảnh hưởng tâm tình của hắn, khiến hắn thấy xa lạ - về mặt tâm linh - với những kẻ tàn bạo, dữ dằn của thời hắn sao ? Không phải sự lý thú hắn cảm thấy khi đọc huyền thuật có nghĩa là, trong tâm khảm, hắn biết có một lúc nào đó nhờ huyền thuật, hắn đã có quyền năng làm được điều người khác gọi là phép lạ sao ? Nhưg cũng còn nhiều việc làm tôi thắc mắc. Tôi có thể hiểu là một khi đã chọn đối diện với điều đã tạo trong quá khứ, chuyện không thể tránh được là những dục vọng khi xưa sẽ chỗi dậy trở lại, và do đó, thân xác của tôi phản chiếu sự tranh chấp này, dễ dàng bị điên loạn hay quỷ ám; nhưng tại sao tôi lại có một thân thể xấu xí quá độ, tại sao tôi lại bị giới hạn nhiều như thế, làm cho việc thể hiện những đức tánh - sau bao cố công - có vẻ như đang phát triển trong tâm thức thành gần như bất khả, điều đó tôi không giải thích được.
Cái chết của Elsa - kẻ vô tội - cũng nêu lên những câu hỏi gần như không thể giải đáp. Cô quả thật là tiêu biểu cho điều làm như là sự bất công của định mạng, thường trừng phạt kẻ vô tôi mà để kẻ có tội thoát. Lại còn sự thù nghịch kỳ lạ của thú vật đối với Carl. Người ta hay nói là thú vật cảm được tính thiện trong người bị coi là thấp kém nhất của xã hội, nhưng Carl không thấp kém cũng không tàn ác, và hắn thương chúng, đây lạ là chuyện bí hiểm nữa. Nhưng tôi biết phải có một nguyên nhân rõ rệt cho việc này cũng như cho cái lưng gù của Carl.
Vì vậy, mong ước được làm sáng tỏ, tôi đi tới chỗ vắng và bằng cách tĩnh lặng cái trí, nâng cao mức rung động lên một nhịp cao hơn, tôi tìm cách liên lạc với Thầy. Theo với thời gian, tôi nhận thấy ngài càng lúc càng ít xuống cảnh giới của tôi, và chỉ bằng cách gia tăng nỗ lực tôi mới có thể gặp ngài để được chỉ dạy. Đôi khi dù cố gắng hết sức mà vẫn không được hồi đáp, tôi cảm là chính ngài cũng chìm đắm trong thiền ở những cõi mà tôi không mong gì tới. Nhưng lần này tôi được trả lời ngay.
– Con không thấy, ngài nói, cảnh sống của con ở Hy Lạp đã mang lại hậu quả không tránh được là một thân xác bệnh hoạn và tàn tật sao ? Thật lạ lùng khi người ta thấy khó mà áp dụng những luật huyền bí vào chuyện hằng ngày ! Ta có nói khi trước là con người tạo những thể kiếp này bằng tư tưởng và hành động kiếp trước. Nếu con làm kiệt quệ thân xác bây giờ, con sẽ trở lại với những nguyên tử kiệt lực - hay sắp chết -, và phải lo việc nuôi dưỡng, phát triển chúng trở lại. Như thế một trí não yếu đuối thường là kết quả của bộ óc lười biếng hay trí thông minh bị lạm dụng, và ai làm yếu thân xác mình do sự quá độ hoặc dùng nó cho mục đích không hay, tái sinh với thân xác bất toàn, bị động kinh, mang bệnh hoặc não bộ bị hư hoại, thiếu ý chí, có khuynh hướng lập lại tính xấu cũ, vì những lực xấu của quá khứ biểu lộ qua đó dễ dàng. Lòng cao ngạo cũng phản ứng trở lại trên thể xác, ai sống chỉ để thỏa mãn thân xác sẽ trở lại làm tôi mọi cho nó, kẻ tham ăn thường sinh ra với bộ tiêu hóa trục trặc, và ai điên khùng cố tình bỏ đói cơ thể lúc tập sống khổ hạnh cũng bị vậy. Con đã bắt đầu chuyện phá hoại ở kiếp Ba Tư rồi tiếp tục nó ở Hy Lạp tuy theo cách khác. Hai kiếp ấy làm thân xác con khiếm khuyết thật nhiều phần sinh lực tối hệ trọng, trong lành để tạo những thể mạnh khỏe, và Carl là hậu quả.
– Nhưng tại sao con không trở lại giữa kiếp Hy Lạp và thời Trung Cổ ? Tôi hỏi. Nếu nghỉ ngơi lúc ấy thì dài quá.
– Có, con đã thử nhiều lần tạo một thân xác đủ mạnh hầu đối phó với những lực còn ngăn trở con mà không bị nguy hại; nhưng con bị trói tay bởi sự kiệt quệ của nguyên tử mà Ta đã nói. Con sinh làm người La Mã, mà vì quá khứ ở trên, thân xác yếu quá không cho con làm việc nên đã mau lẹ bỏ nó. Sau kiếp ấy con tái sinh nhiều lần nữa, lần nào cũng hư, hoặc chết trong bụng mẹ hay không sống lâu. Cuối cùng con tìm về đông phương và sinh ra với cha mẹ đã từng học Hatha Yoga, nhờ vậy có thể giúp con nhiều việc mà không cha mẹ tây phương nào làm được. Về sau chính con cũng học Yoga này, nhưng điều không may là tà lực vẫn còn quá mạnh và kiếp đó con thất bại trong việc làm của mình; tuy vậy con cũng học đủ và có thể tái sinh ở Đức trong kiếp Carl. Dù vẫn còn yếu, sau chót Carl có đủ sức trực diện và chống chọi quá khứ.
'Như vậy, con thấy là ẩn sau mọi việc, linh hồn đi theo đường của nó thực hiện công chuyện lớn lao, và được trợ lực bằng chính Luật của Sự Sống. Chỉ những ai chưa biết phương cách hành động của luật này mới cho là thế giới nằm trong tay thần thánh bất công, sai lầm.
'Nếu con suy xét cẩn thận kiếp sống này, con sẽ thấy những câu hỏi mà người vô học đặt ra có thể được giải đáp bằng kinh nghiệm kiếp ấy. Đó là tại sao con đươc nhìn lại với đầy đủ chi tiết. Lấy thí dụ số phận Elsa mà con thắc mắc. Chuyện là trong nhiều kiếp trước, cô là phù phủy tà đạo, và hơn thế nữa, vào một lúc khác cô lại chủ trương việc ngược đãi tôn giáo, làm nhiều người chết. Cô phải học để biết cái chết dưới tay đám đông giận dữ ra sao. Ta cũng lưu ý con là ngay cái chết này cũng do lỗi của cô. Lòng kiêu hãnh thúc đẩy cô là chuyện trực tiếp mang lại cái chết; nhưng nếu cô không có quá khứ nặng nề như vậy, hẳn cô đã có thể thoát cái chung cuộc ghê gớm đó. Bởi Adalbert được dìu dắt tới nơi an toàn, còn con, vì có nhiều chuyện phải học trong kiếp này, đã bị kẹt trong rãnh cho tới khi tình hình yên trở lại.
– Còn thú vật, sao con chó lại cấu xé con, sao chúng ghét con quá vậy ?
– Nhìn lại quá khứ xem, không phải con đã giết hại loài thú ở Atlantis ư ? Con không được cho thấy - ngay cả lúc này - tất cả những gì mà con và những kẻ tương tự đã làm ở Atlantis; con sẽ chịu không nổi và cho con nhớ lại cũng không ích gì. Những kiếp sau Atlantis con vẫn tiếp tục sự xấu xa dù ở mức độ nhỏ hơn; con tàn bạo dữ dằn, đi săn để giết chóc hay do tính dửng dưng, vì vậy giữa con và loài thú luôn luôn có sự lỗi nhịp, phá hoại cho tới khi nào với tư cách là người, con thề giúp đỡ và phụng sự linh hồn huynh đệ trẻ hơn trên đường tiến hóa, quân bình mới được tái lập.
'Con đã lạm dụng luật nào của thiên nhiên thì cuối cùng phải làm hòa với chúng; bao lâu chưa làm vậy chúng sẽ đầy ác cảm với con, không phải cố tình, mà chỉ vì con chọn vị thế đối nghịch với chúng, và do đó làn rung động của con bất hòa với rung động của chúng.
'Cái chết của Niedhart là kết quả trực tiếp của việc hắn lạm dụng hỏa lực trong quá khứ. Như vậy, con thấy cái ý tưởng thông dụng ở thời Trung Cổ là thanh lọc kẻ có tội hoặc bằng lửa hoặc bằng nước có phần nào sự thực trong đó; bởi một phần minh triết cổ thời còn sót lại của quá khứ rơi rớt trở vào thời ấy; dĩ nhiên là bị biến dạng ít nhiều. Đáng lẽ phải để các Thần Karma quyết định chính xác khi nào một người ở trình độ cho phép họ lợi dụng tối đa sự đau khổ do phép thanh lọc ấy mang lại, giáo hội Thiên Chúa thời nói trên lại ngạo nghễ tự cho mình có quyền áp đặt sự thanh lọc - hoàn toàn sai lầm - lên những ai mà nó nghĩ là có tội đáng phạt. Kết quả là kẻ nào là công cụ gây ra cái chết người khác theo cách đó, tạo cho chính mình nhân quả giống hệt, vì Đấng mà họ thờ phượng đã nói 'Các ngươi phán xét người khác thế nào thì cũng bị phán xét y thế ấy'.
'Một số những phán quan (Inquisitors) và chức sắc giáo hội cố tình liên minh với tà lực, và dùng cực hình tra khảo người để thỏa mãn ác tâm; nhưng cũng có nhiều người tốt lành, mù quáng do vô minh và bị rối trí trong bầu tâm thức của thời đại họ sống.
'Nhiều người như vậy đang tái sinh lúc này, tìm sự giác ngộ mà trước kia họ đã chối bỏ. Trong số có những khoa học gia liều mình - vì lợi ích của nhân loại - thí nghiệm với điện và những tia, về sau chúng sẽ được dùng để trị lành nhiều bệnh. Những người ấy bị thúc đẩy bởi động lực bên trong và dù họ không biết, tìm cách trả lại nợ cũ bằng cách học làm việc với lửa, và dùng nó làm tác nhân chữa lành thay vì phá hoại. Một số đông hy sinh tột cùng khi làm vậy, chịu tổn thương trong lúc thí nghiệm rồi cuối cùng, thân xác họ bị phá hủy bằng chính lực khi xưa họ đã dùng nơi kẻ khác.
'Lẽ dĩ nhiên còn nhiều người chưa đủ tiến hóa để có thể nỗ lực tối đa, quân bình nợ cũ bằng cách ấy; hiện giờ họ chịu đau đớn vì điện bị ứng dụng sai, hay bị thương và chết trong thế chiến, hay những hình thức khác của lửa. Cũng y vậy nhiều người trả nợ cũ qua lực phá hoại của không khí, đất và nước. Ở thời điểm này, những linh hồn cố gắng đi mau đang nỗ lực mãnh liệt để quân bình với các lực thiên nhiên; suy nghĩ một chút về hiện tình thế giới sẽ cho con thấy điều ấy. Và theo đó Luật được thi hành trọn vẹn, toàn hảo trong mọi chuyện, không ai trốn thoát. Không có gì là ngẫu nhiên; nếu con người có thể nhìn vào quá khứ, họ sẽ hiểu nguyên nhân của điều mà người đời cho là bất công tàn tệ.
– Nhưng điều mà con thấy bất công nhất, tôi nói, là để con người tiến bước trong bóng tối, không nhớ chuyện xưa. Nếu nhớ lại quá khứ và thấy những lỗi lầm đã phạm, hẳn không ai sẽ tái phạm. Ai còn có thể tàn nhẫn, hung bạo và đầy tham vọng nếu được thấy nhân quả của việc ấy như thế nào trong kiếp trước ? Ký ức sống động của tiền kiếp chắc chắn làm con người tu nhân tích đức và sáng suốt ngay.
Ngài mỉm cười.
– Có thể họ làm vậy - trong một lúc thôi. Nhưng làm vậy chỉ vì sợ, thành ra chỉ tiến bộ khi nào động lực thúc giục làm lại chuyện cũ không mạnh lắm. Rồi họ sẽ dễ dàng quên, hay nghĩ rằng lần này tránh được hậu quả.
'Không, không, tiến bộ không thể có do lòng kinh sợ Luật như ta đã nói với con, mà chỉ bằng cách sửa lòng. Bao lâu người ta còn là nô lệ của tình cảm, họ vẫn làm chuyện điên rồ, vì họ bị thúc giục bởi điều mạnh hơn chính họ. Hãy thử nghĩ, có bao giờ trong đời con không hề phạm cùng một lỗi hai lần không ? Con có nhập tâm mọi bài học của kinh nghiệm và áp dụng nó không ? Ta không nghĩ vậy.
'Bắt con người phải mang gánh nặng quá khứ, nhớ lại mọi chuyện đã làm cho họ thành họ ngày nay, cũng không cần thiết như bắt con phải giữ trong tâm thức mọi chuyện lúc con đi học, tuổi ấu thơ lúc con được dạy luân lý ở đời. Sống cả đời trong quá khứ chẳng ích lợi gì. Mà thực ra, không có gì bị lãng quên như con đã biết. Tiềm thức gạt bỏ ký ức, còn siêu thức giữ lại mọi chuyện và dùng mọi chuyện, dù nhỏ hay không đáng kể. Vì mọi hành động là nguyên nhân; chính cái kết quả của những nguyên nhân này, con người hiện giờ, mới quan hệ.
'Hơn thế nữa, như con sau khi thấy quãng đời Atlantis của mình, nếu người trung bình được cho biết hết những lỗi lầm, thảm kịch, mất mát và tội ác của quá khứ, hẳn anh sẽ dành trọn kiếp hiện thời nghiền ngẫm chuyện cũ, và chẳng bao lâu không còn đủ sức trực diện những việc mà anh sinh ra để giải quyết. Cố nhiên có những người còn giữ được khả năng thấy lại kiếp trước, họ không còn bị mất quân bình do việc hồi nhớ ấy có thể gây cho trí não, nhưng lại phí trọn thời giờ quí báu kiếp này để sống trong sự huy hoàng thời xưa, nhằm bù lại sự thiếu sót kiếp này, trong khi đáng lẽ phải làm việc để sửa chữa chúng.
'Trở lại chàng Carl. Kiếp ấy gần như quá sức chịu đựng của hắn; nhớ lại chuyện cũ sẽ quá mạnh, có thể làm hắn điên, vì lúc ấy không ai đủ sức giải nghĩa những chuyện cũ cho hắn. Nhưng quá khứ ở ngay trong người hắn, vậy là đủ.
'Đã có lần con nhận xét rằng ấn tượng của quá khứ bắt đầu ảnh hưởng phàm ngã càng lúc càng thường và mạnh hơn. Ấy là do Chân Ngã - Thượng Đế Nội Tâm tri thức mọi việc - bắt đầu có thể lưu ý phàm ngã với phần ký ức không hề mất đi. Người đời gọi ký ức đó là lương tâm. Nhưng tiếng nói của lương tâm không thể nghe được bao lâu sự đòi hỏi ồn ào của giác quan còn mạnh, phải đợi khi thân xác được tinh lọc và kềm chế đúng mức. Nên tại sao với một số người họ không nghe ra, với người khác nó lại lanh lảnh như chuông nhà thờ làm họ không thể không thuận.
'Khi con người tiến hóa, mối liên hệ giữa phàm ngã và Chân ngã càng trở nên khắn khít và nhờ vậy, kinh nghiệm quá khứ tương tự với chuyện hiện tại được hồi tưởng rõ ràng hơn, vì cảm giác trở lại khi gặp rung động y hệt và kích thích ký ức. Do đó, khi quá khứ và hiện tại nối kết chặt chẽ, lập tức sự nối kết tác động như nam châm, thu hút nguyên tử của quá khứ về hiện tại, và tự động sẽ khơi dậy những nợ cũ trong quá khứ đó cần được trang trải. Ấy là lý do tại sao con người không nên được cho phép tự mình thấy kiếp xưa, nguy hiểm quá, nó có thể mang lại karma mà họ chưa sẵn sàng, và để họ trả bây giờ cũng không hay.
'Trong trường hợp của Carl, sự nối kết chặt chẽ của Chân ngã và phàm ngã lập tức kích thích những lực mạnh mẽ nào của tà đạo còn chưa được chuyển hóa và tiềm ẩn trong hào quang hắn, vì bất cứ nỗ lực mãnh liệt nào về một phía sẽ gây ra phản lực phía đối nghịch theo Luật Quân Bình. Động sẽ gây ra phản động ở mọi cảnh giới; con người ở cõi trần chỉ có thể ngưng sự đau khổ do việc như thế gây ra, khi hiểu được cách thức làm quân bình cặp đối nghịch. Sự tranh chấp này thấy nơi Carl khi hắn lần lượt bị ám ảnh rồi lại cố công làm chuyện lành và tiến bộ. Qua dòng từ lực của quá khứ, hắn gặp trở lại người mà hắn đã cùng làm việc ở Atlantis, kẻ ấy cũng đang phấn đấu trên Đường Trở Về, nhưng chưa đạt tới trình độ như Carl. Chuyện đáng suy nghĩ là lần này, ngay cả khi Carl triệu hồi lần nữa những lực tà đạo, hắn được nhắc nhở bởi giọng nói trong hồn và lập tức xua đuổi chúng. Hắn thắng cuộc, nhưng việc triệu hồi tà lực khiến hắn phải trả bằng đau khổ tâm thần, và bằng việc mất đi một số lợi thế đã có.
– Chuyện gì xẩy ra trong tu viện ? tôi hỏi, cuối cùng hắn ra sao ?
– Hắn sống đời hết sức khổ hạnh, ăn năn, vật lộn với ma quỷ đã từng theo đuổi hắn, và lại mạnh mẽ hơn khi hắn rơi trở vào ma thuật trong thời gian ngắn. Cuộc đời ấy bị lãng phí không đáng chút nào, vì nếu hắn kiên nhẫn hơn, không hối thúc sự việc bằng cách dùng ma thuật đi đường tắt, cuối cùng hắn có thể được dân chúng thương yêu, kính mến. Nhiều cơ hội đang chờ hắn không xa. Do khả năng điều binh khiển tướng có được hồi ở Ai Cập, hắn có thể đánh bại Heinrich von Friedfeld, quân lính sẽ thán phục, gia tăng hạnh phúc và an ninh cho dân.
'Hơn nữa, chẳng bao lâu sau khi hắn bỏ trốn, dịch hạch lan tràn rồi đói kém xẩy ra. Nhờ thấy xa hiểu rộng và biết vài điều về thuật chữa bệnh học được ở kiếp mà con chưa thấy, Carl rất có thể làm lợi nhiều cho dân. Trái lại hắn chỉ tạo thêm một chuỗi khó khăn cho kiếp tới, và trang bị trí não bằng những ý niệm sai lầm, sợ hãi và hối hận quá đáng. Những năm dài trong tu viện, phiền muộn về tội lỗi của mình, hắn đã ảnh hưởng các nguyên tử thanh bai trong thân xác tới nỗi kiếp sau, hắn tái sinh mang đầy cảm giác tội lỗi kỳ cục thấy rõ nơi các giáo sĩ đời nay; trong trường hợp hắn điều ấy càng mạnh thêm bằng mối sợ hãi quá đáng về tình dục, vì hắn sa ngã do lòng ham muốn nữ phái.
'Thành ra trong kiếp tới, bản chất con mất quân bình và bị tranh chấp xâu xé. Mọi việc được tính toán cho con sinh ra ở một nơi và vào lúc tốt đẹp nhất, hầu giúp con giải quyết hai điều ấy đồng thời cho con kinh nghiệm để nhờ vậy có được cái nhìn về sự sống hợp lý hơn.