VÒNG TÁI SINH

CHƯƠNG 2
AI CẬP

Thời gian trôi qua, một hôm tôi chợt vơ vẩn nhìn cái nhẫn có gắn đá hình bọ rầy mà tôi đã đeo từ nhiều năm. Hồi đó tôi thấy nhiều kiểu nhưng lại vô cớ chọn nhẫn này, vì chẳng những nó bị trầy một chút mà lại là cái thường nhất so với các nhẫn khác. Hàng chữ trên nhẫn ghi 'Cầu xin Thần Ra che chở đời bạn'. Về sau tôi khám phá mặt sau nhẫn có khắc một con ó thật nhỏ, tượng trưng cho thần Horus, đôi cánh chim là một phần của huy hiệu hoàng gia.
Rồi tôi được Thầy dạy rằng xưa kia nhẫn đã thuộc về tôi, khi ấy nó được truyền từ điển một cách đặc biệt, theo đó một hạt nguyên tử trong hào quang của vị làm phép được gắn vào nhẫn, và nốt của Chân nhân được xướng lên trong lúc Ngài làm vậy. Phương pháp ấy khiến cho khi nhẫn trở lại với tôi - và những bùa chú như vậy sẽ trở lại với sở hữu chủ, vì luật Hấp Dẫn sẽ mang những vật tương đồng lại với nhau -, vài luồng lực trong quá khứ sẽ được tái khích động do việc tái hợp của nhẫn và chủ nó. Ấy là lý do tại sao người không hiểu biết mà đeo bùa chú cổ xưa có thể bị hại, vì năng lực giam hãm bên trong có thể xung khắc với họ.
– Trong kiếp này con sẽ quay trở lại Ai Cập, Ngài dạy, một số phần việc có liên hệ tới nước ấy đang chờ con. Bởi nhớ rằng sanh trong một quốc gia nào là hàm ý nhìn nhận trách nhiệm với quốc gia đó. Quốc gia là Thực Thể tâm linh, và khi con là một phần của thực thể đa dạng đó - là tế bào trong cơ thể của Nó -, con thu hút một số lực và tính chất của quốc gia mà chỉ nó mới có thể cho con, tức con mắc nợ quốc gia và phải trả lại cho nó điều nó đã cho con, vào lúc này hay lúc khác. Bởi vậy con người thường có ước vọng nồng nhiệt là phụng sự - hay cả việc hy sinh mạng sống mình cho quốc gia. Mai sau khi Karma về óc phân rẽ hiện thời đã trả xong và bản chất con người đã tiến hóa, khiến họ không còn cần sự phân rẽ ấy nữa, đặc tính quốc gia sẽ dần phai lạt và con người thấy thân cận nhau hơn, và từ từ hàng rào ngăn nước này với nước kia biến mất. Hiện giờ những linh hồn tiến hóa mà nước nào cũng có họ sinh ra và phụng sự hết lòng, không còn thấy mình thuộc về một quốc gia riêng biệt, và họ làm việc cho một giống dân hơn là một dân tộc. Con nên tập phát triển tình huynh đệ đại đồng bằng cách thông cảm nhiều hơn, và cùng lúc sáng suốt phụng sự cho đất nước mà dây nhân quả đã ràng buộc con trong kiếp này.   
'Còn với món nợ phải trả cho Ai Cập, chẳng bao lâu con sẽ tiếp xúc lại những mối liên hệ trong quá khứ và sẽ có cơ hội trang trải chúng. Lúc trước con chưa đủ sức để làm chuyện này vì nó đòi hỏi một số kiến thức mà con đã quên từ lâu, nhưng kiến thức ấy sắp trở lại nay mai. Ít nhất trong sáu hay bẩy năm là con sẽ làm việc Thầy vừa nói.
Ngài ngắm tôi, mỉm cười.
– Con không tin ư ?
– Con không biết làm sao việc ấy xẩy ra được, tôi thú nhận, tại con có nhiều mối dây ràng buộc với nước Anh, cũng như có nhiều khó khăn nếu muốn làm vậy.
– Con sẽ thấy có cách giúp con trở về vùng đất xưa, hễ ngày giờ tới con sẽ thấy cát sông Nile êm mịn dưới chân. Ngài nói một cách bí ẩn và tôi chỉ biết có vậy.
Chẳng bao lâu, một đêm kia trong giấc ngủ tôi thấy mình đứng trước hai kim tự tháp. Trước mặt tôi là chiếc nhẫn bọ rầy và khi tôi nhìn kỹ nó, con diều hâu như thoát ra khỏi nhẫn, lớn dần, lớn mãi che khuất cả bầu trời. Nó bay lượn trên đầu tôi, xòe đôi cánh rộng. Tôi như nghe có tiếng nói:
– Diều hâu là thần che chở con, và trong trí tôi nhớ lại một câu cổ thư: 'Và cái bóng của đôi cánh ngài trên đầu con là tình thương.'
...
Nhưng khi tôi quay về kiếp Ai Cập thì tay tôi không có nhẫn bọ rầy mà tim tôi cũng không có tình thương, sự bảo vệ duy nhất tôi có là ý chí bất khuất của mình. Tôi đứng ở cửa sổ trên lầu nhìn ra mái phẳng của cung điện, chạy dài tới một nét mờ và tiếp đó là sa mạc. Trăng rằm nằm lơ lửng trên bầu trời xanh đậm, tựa như một cái chén lấp lánh úp lên quả đất, trăng sáng quá làm tinh tú mờ. Tôi đứng ngắm trời đêm. A, phải chi con người vượt lên tới các tầng trời. Nhưng tôi bị cột chặt vô mặt đất, cái mặt đất chẳng còn gì để cống hiến cho tôi, vì tôi không còn tìm ra chuyện gì để có thể vui chơi, hay hưởng lạc thú bằng cách dùng năng lực ý chí khắc phục nó.
Dù là Pharaoh tôi vẫn thấy chán chường tới mức không tả nổi. Vào phút này, điều gì xẩy ra cho mình tôi cũng vui lòng đón nhận, kể cả cái chết. Nhưng không, chết không được, vì chết có nghĩa là mất hết quyền hành, chiến thắng, mất đi cái ý chí dũng mãnh vô song của tôi. Tôi đưa tay gạt ngang trán, nhức đầu quá. Chắc mai mốt có chết tôi cũng mừng, còn thiếu gì chuyện tệ hơn cái chết nữa. Tôi chợt rùng mình.
Dưới nhà, tiếng cười đùa đàn hát vang trong bầu không khí ngát hương. Tôi đã rời bữa tiệc mấy phút trước, để bọn thích ăn nhậu ở lại say sưa với nhau. Gần đây tôi thấy mình chán ngấy những trò hoan lạc đó, cũng như chán luôn mọi cảm xúc, do dục tình, chiến trận, hay nỗi thích thú khi tàn nhẫn với kẻ khác mang lại, những cảm xúc mà lúc mới trưởng thành tôi đã say mê. Bản tính người Ai Cập không tàn bạo, nhưng mẹ tôi là một nô lệ; người Do Thái còn bán khai, thờ cúng Javeh; giáo sĩ đòi hỏi phải giết thú vật để cúng thần và khắc sâu vào lòng dân chúng thói tàn nhẫn cùng với ý trả thù. Thành ra trong huyết quản tôi máu của người dân hiền hòa sông Nile ưa chuộng văn hóa trộn lẫn với sự nhẫn tâm và đam mê của người Do Thái. Có lẽ nhờ nó mà tôi được lên ngôi. Trong khi các hoàng tử của Pharaoh đều nhu nhược, không quả quyết, ưa lập mưu hại nhau, tôi lại cứng như thép. Chẳng bao lâu tôi trở thành một trong những tướng thân cận nhất của ba tôi. Lúc bấy giờ Ai Cập đang ở trong một giai đoạn không có gì nổi bật. Nhưng tôi mơ tới một nước Ai Cập hùng mạnh, thống nhất, với tôi trên ngai vua. Mà tôi không âm mưu chống lại Pharaoh, vì dư biết không cần phải làm liều như vậy, nhà vua là kẻ thù tệ hại nhất của mình. Khi cuối cùng vua bị một trong các hoàng nam ám sát, tôi tiến về kinh với đạo quân trung thành, bắt kẻ phản nghịch, xử tử hắn và lập người kế vị hợp pháp. Trời như chiều lòng và như tôi biết trước, trong vòng ba tháng hắn đã chết vì một bệnh mắc phải từ lâu. Vị Đại Pháp Sư Besiurt thúc giục dân chúng nài xin tôi nhận ngôi vua, vì ông thấy tôi là người có thể cứu vãn đất nước trước họa ngoại xâm, và cao vọng của tôi như vậy đã thành.
Tôi lên ngôi đã được bẩy năm. Ai Cập sau bao thăng trầm đã được hưởng thái bình, và nước thù địch phải kiêng nể. Nhưng tôi lại bị tấn công bởi những kẻ thù tinh quái hơn, và từ lúc chiến thắng các nước láng giềng, tôi không còn phải ra trận mạc mà ngồi hưởng sự bình an trên ngôi, chúng lại càng trở nên mạnh mẽ và quá quắt. Từ hồi còn nhỏ tôi đã rất nóng tính, dễ nổi giận điên cuồng, hoặc xuống tinh thần tới mức làm như tôi bị chìm đắm trong màn đêm dầy không còn thấy ánh mặt trời, không còn biết có ai chung quanh. Trong những năm gần đây triệu chứng tăng lên đáng ngại. Ít khi tôi ngủ dược, mà nếu giấc ngủ đến nó lại có đầy ác mộng khiến tôi choàng tỉnh, mừng là được tỉnh dậy. Gọi thầy thuốc, tu sĩ tới chữa chỉ mất công, họ chẳng giúp được gì.
Nhưng tôi không tin là mình rồi sẽ hóa điên rồ và chết dần mòn không phương cứu chữa. Cái đặc tính đã khiến tôi vượt bao trở ngại, cho tôi biết rằng hễ ai cố gắng hết sức mình thì không có gì đánh bại được. Nếu quả thật có ma quỷ ám tôi thì chúng có thể bị tiêu diệt; nếu bệnh tôi do thần linh gây ra thì các Ngài phải có thuốc chữa. Nếu trong khắp Ai Cập không có tu sĩ nào đủ khôn ngoan để truy tầm căn bệnh, thì tôi phải đi chỗ khác tìm người uyên thâm quảng bác hơn. Đối với tôi vấn đề chỉ là sự hiểu biết. Có lẽ, tôi nghĩ, câu trả lời cho chuyện của tôi không chừng lại là chìa khóa về ý nghĩa cuộc đời, cái ý nghĩa mà tôi hoài công tìm kiếm. Và bây giờ, bị ám ảnh bởi chứng điên loạn tôi càng nóng nẩy muốn tìm ra căn nguyên của bệnh, bằng không tôi sẽ hóa cuồng.
Tay nắm chặt thành cửa sổ tới nỗi những đốt xương hóa trắng bệch, tôi cúi người ra trước, hét một tiếng vào đêm đen, nhưng đáp lại chỉ là một tràng cười lẫn tiếng sên phách. Bừng bừng nổi giận, tôi quay phắt lại, đi ra cửa vung tay kéo toạc bức màn. Tên lính hầu kinh hoảng bước tới.
– Ngươi xuống nhà, tôi hét lớn, ra lệnh cho khách bãi tiệc ngay. Dẹp hết, đuổi chúng về. Và bảo chúng là ta thề có quỷ thần, nếu còn một tiếng động ta sẽ quăng hết cả bọn vào hầm sư tử.
Hắn quỳ xuống, run rẩy khắp người.
– Vâng lệnh Thánh hoàng.
Hắn chỉ dám lập bập có thế rồi vụt ngay ra hành lang thi hành lệnh tôi.
Tôi đi ra cửa sổ, dần dần tiếng huyên náo mất đi và chỉ còn lại mình tôi với đêm thanh vắng. Tôi vẫn còn bị rúng động, nhưng bây giờ vì sợ hơn là vì giận. Hàng ngàn lưỡi kiếm nóng bỏng như thọc xuyên qua đầu, dấu hiệu của một cơn đau sắp tới, cơn tấn công từ kẻ thù bí mật. Ôi Trời, bao chiến thắng để lên ngôi vua, giờ thành như vầy sao ? Vậy tôi đánh đông dẹp tây để làm gì, nếu cuối cùng chỉ được nếm sự chán ngán và hóa điên dại ? Sự yên lặng càng làm tôi bực bội hơn tiếng cười đùa và tiếng nhạc, không chịu được nữa tôi rời phòng đi rảo qua hành lang nối liền cung vua với đền thờ, và cuối cùng đến phòng của vị Đại Pháp Sư Besiurt.
Hắn đang làm việc, trên bàn đầy những cuộn chỉ thảo (papyrus, giấy làm bằng cỏ lác mọc ở ven sông) nhưng đứng dậy chào, cúi đầu trịnh trọng, tuy thế mắt hắn lạnh và gương mặt đầy vẻ nghiêm khắc.
Tôi bảo.
– Besiurt, đêm nay, ta sẽ tỏ hết nỗi lòng cho ông, không phải như Pharaoh nói với vị Đại Pháp Sư, nhưng là người với người. Ta biết ông vẫn khinh ta là kẻ soán ngôi, nhưng ta muốn nhắc ông rằng nếu không vì quyền lực của ta, Ai Cập đã bị loạn lạc và xâu xé từ lâu. Nếu bây giờ ta mất đi, không có viên tướng nào, không một hoàng thân nào đủ sức bảo vệ bờ cõi. Mà ta lại đang chết dần mòn, đang bị lấn áp, đục khoét từ  bên trong. Ông biết thế, nhưng ông chưa biết hết. Trong ba năm qua càng ngày ta càng bị sợ hãi. Ta, người chưa hề biết sợ là gì. Lúc này làm như trong ta có hai người, làm như có một kẻ thù ghê gớm nào đó đã chiếm ngụ thân xác này, và càng lúc càng trở nên mạnh hơn, dần dần khống chế ý ta.
Tôi đi tới lui trong phòng.
– Làm Pharaoh có ích gì ? Có uy quyền khắp thế giới để làm gì nếu mình không làm chủ được chính thân mình ? Bệnh ta là bệnh gì vậy ?
Tôi quay về phía hắn, nắm tay đấm lên trời.
– Ta bảo ông, Besiurt, chẳng phải chỉ có đời ta hay tấm thân ta liên quan đến bệnh này. Vì ta cảm thấy có một sự đe dọa còn lớn hơn cả việc thân xác này bị hủy hoại. Ta không giải nghĩa cho ông rõ được, vì chính ta không hiểu nó. Nó giống như ta bị đối đầu, không phải với cái chết vì rồi chúng ta sẽ có ngày sống lại, nhưng với sự tiêu tán lớn hơn, việc hủy diệt trọn cá tính linh hồn ta. Chuyện đó có chăng, Besiurt ? Bị nghiền nát hoàn toàn, vô hy vọng, không có sách vở huyền thuật nào, không tu sĩ tài giỏi nào, không kẻ ướp xác thiện nghệ nào, có thể cứu được. Ta cảm thấy vậy. Ta đã làm gì để gánh hậu quả như thế ?
Hắn đổi sắc mặt thành nhợt nhạt, dường như hắn cũng cảm thấy luồng gió tử thần, hắn tránh né tia nhìn của tôi. Liếc qua hắn tôi chợt có cảm giác tuyệt vọng cùng cực. Chuyện gì nữa đây ? Tôi chế ngự cơn sợ hãi đang trào dâng như muốn đè bẹp người, và tiếp tục một cách thong thả hơn.
–  Bất lực ... không thể làm gì để chống đỡ ... Cái mầm chết ngay chính trong thân ta, kẻ thù nằm ngay trong tim ta, ta chết mất nếu không trị được nó. Phải có cách thoát. Tại sao chỉ có ta bị từ chối không được biết gì về bệnh này ? Tại sao không có thánh thần nào xứng đáng cho ta giải đáp về điều bí ẩn trong chính thân ta ?
Tôi ngưng lại. Tôi thấy mình đang run rẩy từ đầu tới chân. Toàn thân đau ran, đầu nóng bỏng, nhưng tôi không chịu thua. Tôi tiến lại gần và thấy hắn thu người trước sự điên dại trong mắt tôi.
– Ta ra lệnh cho ông, tôi thét lên, Ta, Pharaoh, ông phải cho ta biết sự thực. Bởi ta cần phải biết. 
Hắn đứng chôn chân, mắt như mắt rắn lạnh lùng lim dim. Trên bàn ngổn ngang những cuộn chỉ thảo, những dụng cụ lạ lùng và mảnh gỗ khắc chữ Chaldean, tôi ngó chúng ơ thờ nhưng óc tôi không ngớt dò xét tâm hắn. Rồi tôi thấy môi hắn mấp máy, như không biết mình đang nói ra.
– Người sẽ không để vua biết chuyện gì, tôi nghe thấy vậy, Người sẽ không cho phép ...
– Ông nói với ai vậy ? tôi gay gắt hỏi.
– Không, có ai đâu, hắn lắp bắp, tôi đang nói về thần linh.
Tôi cười khinh bỉ.
– Thần linh ? Không, không, ông đang nói tới 'Người'. Hắn là ai mà đám coi thường lệnh ta ?
– Tôi nói thần Ra, đấng tối thượng. 
– Ông nói tới một người ! Kẻ nào dám nghịch ý ta thế ? Ông có phải là kẻ phản nghịch chăng ?
Tôi rút dao tiến lại gần hắn, Besiurt bước thụt lui hốt hoảng.
– Pharaoh, hắn la to, tôi thề tôi không là kẻ phản loạn. Không phải chính tôi đã đưa ngài lên ngôi vua sao ? Chẳng lẽ bây giờ tôi lại muốn kéo ngài xuống ?
– Ông không có cơ hội đâu, tôi nói đầy sự dọa nạt, nếu ông không cho ta biết kẻ ấy là ai, ta thề có quỷ thần, ông và đám tu sĩ phải chết.
Tôi thấy lòng sôi sục một cơn giận điên cuồng.
– Phải, tôi gào lên, ta sẽ cầy nát đền thờ khắp Ai Cập, ta sẽ hành tội bọn tu sĩ tới chết không chừa một ai, cho đến khi ta biết được kẻ mà ông vừa nói, kẻ mà ông nhắc tới như là chúa Ai Cập mà không phải ta.
Hắn thụt lui nhưng tôi bước sấn tới nắm chặt lấy cổ hắn, đẩy Besiurt đứng dựa vào tường. Tôi ẩy mạnh, cười vào mặt hắn, cho tới khi hắn nghẹt thở la lên.
– Ngài buông ra, để tôi nói.
Tôi thả hắn ra, và khi hắn ráng chững chạc đi về chiếc bàn, thấy mắt hắn đầy ắp nỗi thù ghét, tôi biết mình đã biến hắn thành kẻ thù nguy hiểm. Nhưng tôi cóc cần, vì tôi biết hắn cần tôi hơn là tôi cần hắn.
– Nếu tôi bắt buộc phải nói, thưa đức vua, không phải vì tôi sợ chết nhưng vì tôi thấy sự điên loạn nơi ngài có thể gây tàn phá cho mảnh đất thân yêu này. Quả thật ấy là một người, nhưng là Đấng trên ngài và tôi, y như ngài và tôi cao hơn đám dân quê. Chỉ có bậc Đạo Vương và những tu sĩ cao cấp mới được biết về sự hiện diện của Người. Vua không thuộc những người ấy thành ra không được coi là xứng đáng để tiếp nhận minh triết của Ai Cập. Vị Đạo Vương, Chân Vương của Ai Cập, Đấng Pháp Sư mà tôi chỉ là kẻ hầu hèn mọn, chỉ cho kẻ nào đã được nhận vào cửa đạo biết về Người. Pharaoh biết cho, do lệnh của Người mà chúng tôi chọn ngài làm vua. Đấng ấy biết không ai trừ ngài trong tình thế  có thể tái lập hòa bình cho mảnh đất đáng thương này. Khi vương miện được gắn lên đầu vua, khi ngài được công bố là Pharaoh, thì Đấng Cao Cả đứng cạnh và ban phép lành mà ngài không hay biết. Đấng ấy đã dặn dò linh hồn ngài, giao cho vua trọng trách chăm lo Ai Cập cho đến khi thuận tiện, có một người thuộc hoàng tộc mà cũng là người được nhận vào cửa đạo, xuất hiện thay cho ngài. Vua đã nhậm lời tin cẩn ấy. Tai họa khôn lường sẽ đến với ngài nếu vua làm sụp đổ niềm tin của Người.
Tôi ngồi lặng yên một lát. Tôi biết hắn nói thật và chợt thấy bình tâm khi nghe xong chuyện. Cơn điên loạn tan biệt khiến tôi mệt mỏi tột cùng như sắp ngất đi.
– Đấng ấy có thể cho ta biết về con người ta chăng ?
– Không có gì mà Người không thể cho vua hay. Viên tu sĩ trả lời.
Tôi đứng dậy.
– Vậy cho ta biết Người ở đâu, ta sẽ tới gặp Người.
Hắn tỏ vẻ kinh ngạc.
– Chuyện ấy không thể được, thưa Pharaoh.
Tôi mỉm cười đặt tay lên chuôi dao.
– Không được à, chữ đó ta không biết, ta có cần nhắc lại ý mình chăng ?
Hắn dơ tay.
– Vô ích thôi. Tôi không biết. Không ai biết cả. Người đến và đi theo ý mình, hễ cần thì mới cho tu sĩ và thần tiên tri hoàng gia biết. Dù vua có cầy nát đền thờ Ai Cập, tàn phá hết nhà cửa khắp nước cũng không tìm được Người nếu ý Người muốn vậy.
Tôi nhận biết đây là sự thực, nhưng lời của hắn làm tôi nẩy ý. Tôi giả vờ ưng thuận.
– Thôi cũng được, nhưng hãy nhớ rằng ta không thể làm tròn sứ mạng nếu ta hóa điên hay chết; ta nói lại cho ông rõ ta không thể chịu được cảnh này lâu hơn; dân chúng suy tôn Pharaoh là thần nhân nhưng ta cũng chỉ là người, ta cần ngủ cần được thoát nỗi đau đớn, thoát ngọn lửa đang đốt cháy hồn ta. Ta có ý chí nhưng không biết làm sao để trị chứng này. Tốt nhất ông ráng cầu cho Người chỉ cách ta hết bệnh.
Tôi quay lưng ra về, đi ngang qua sân chính của đền thờ, thấy cần phải suy ngẫm về sự tiết lộ kỳ lạ đó. Tôi không gọi ngự lâm quân đưa về vì chẳng cần; tôi không sợ kẻ cắp hay có ai sát hại bởi tôi cao hơn mọi người một cái đầu, và mạnh tới mức có lần tay không giết sư tử.  Hơn nữa tôi ăn mặc giản dị, chỉ có một vòng bằng vàng quấn ngang trán cho biết tôi là ai.
Tôi đi ngang qua vườn thượng uyển. Trời gần sáng rồi, có vài tiếng chim kêu trên không. Chẳng bao lâu nữa mặt trời sẽ mọc lên rạng rỡ; tôi đi tới bờ sông Nile, ở đây đậu vô số thuyền, chúng đã kéo về một pho tượng khổng lồ của tôi được tạc từ hầm đá. Nó đang đứng trên mấy cột cỗ lăn và khi ánh dương tỏa rộng, những tia sáng hồng phản chiếu lên gương mặt tĩnh lặng. Tôi đứng dựa vào chân tượng nhìn lên. Tôi đó. Đối với bao thế hệ về sau nó là tượng trưng cho hình dạng tôi. Tôi đã ra lệnh tạc tượng thật sống động, và giờ cái gương mặt oai hùng với mũi diều hâu, môi mỏng, mi mắt nửa sụp đăm đăm nhìn xa vắng vào thế giới trước mặt. Pho tượng sẽ còn mãi với thời gian, nhưng còn tôi, linh hồn tôi sẽ ra sao ? Nghĩ như vậy lại khiến nỗi lo sợ và chán chường đè nặng tâm tư, bóp nghẹt cả tư tưởng, hy vọng và sức sống. Tôi quay đi, nặng nề bước về cung điện.
Giải quyết xong sự việc trong ngày, tôi quay về phòng cho gọi hoàng hậu Re-shep-sut em cùng mẹ với tôi. Tôi dự định hai chúng tôi sẽ dùng huyền thuật trên cô đồng Net-Ka để khám phá điều tôi muốn biết. Net-Ka là em cùng cha với tôi, từ lúc mới sinh em đã được chọn làm cô đồng cho thần linh và do đó ở luôn trong đền có quân gác cẩn mật. Bây giờ Re-shep-sut phải thuốc cho bọn lính vệ ngủ say để mang Net-Ka và cung điện.
Dưới ảnh hưởng của thần chú, Net-Ka trở nên mê loạn rồi run rẩy co rút thân hình, như thể bị dằng co giữa hai lực đối kháng. Đột nhiên có thay đổi. Nàng đứng lên cho tới khi thẳng người, như sẵn sàng để bay, mắt mở rộng, gương mặt biến đổi hẳn qua nụ cười rạng rỡ:
–  Ngài đây rồi, Chân Sư đã tới rồi, đoạn nàng thở một hơi dài, vật mình ra giường bất động.
Khi ấy tôi chợt biết sợ hãi là sao. Trước kia trong lúc tập huyền thuật tôi luôn làm chủ mình, nhưng giờ đây, dần dần bao phủ tôi là một lực mà tôi không biết chút gì, tôi đem hết sức mình cưỡng lại nhưng chỉ vô ích. Càng ngày lực càng tăng, nó tinh quái len lỏi khắp người, đánh gục ý chí tôi. Nó giống như một nốt nhạc thật trong, nhưng là nốt nhạc làm tan rã, giống như ngọn lửa băng giá mầu trắng. Ngọn lửa đẹp thật, nhưng với tôi là sự tan biến, chết chóc. Tay chân tôi mềm nhũn đau đớn, mỗi tế bào, mỗi dây thần kinh đều run rẩy xong rã tan. Tôi khuỵu chân, té sấp mặt nhưng trong lúc bị rã rời đau đớn thân xác như vậy, tôi vẫn cố giữ vững phần tâm linh sâu kín của mình, giữ cho ý muốn không thay đổi.
Trong lúc ráng cưỡng lại một cách yếu ớt, tôi nghe giọng nói dịu ngọt khôn tả, đầy uy lực, và mỹ lệ khiến tôi xuôi tay rũ liệt, nằm thẳng đong như xác chết.
– Vua đã gọi tôi, giọng đó nói, vua khẩn nài tôi tới đây. Phương pháp vua dùng là tà thuật và như thế vua sẽ phải trả giá sau này. Nhưng bởi đọc được tâm người, biết rõ vì sao vua hành động như vậy nên tôi đến đây.
Tôi không nói được, nhưng chắc hẳn một cái gì đó sâu thẳm trong lòng, cái phần duy nhất còn sự sống trong tôi, đáp ứng lại và tiếng nói cất lên.
– Được rồi, bởi vua nài xin, ý vua sẽ được chấp thuận. Khi ngày giờ thuận tiện tôi sẽ cho mời vua.
Rồi tiếng nói ngưng và màn tối đen chụp lấy người tôi. Khi tỉnh lại tôi thấy Re-shep-sut quỳ bên cạnh lo lắng.
– Chuyện gì xẩy ra vậy ? nàng hỏi, thiếp không nhớ gì hết, vua đã biết được điều bí ẩn chưa ?
Tôi chậm chạp đứng lên, tay chân nặng như chì, đầu ngầy ngật.
– Ta chưa biết, tôi chỉ tay về Net-Ka, giờ phải mang nó về đền thờ kẻo lộ.
Net-Ka vẫn còn ngất. Làm gì cũng không khiến nàng tỉnh lại, nhưng tôi nghĩ thần linh đã che chở chúng tôi và khiến đám vệ binh ngủ say như chết. Vì dù hai chúng tôi xốc nách nàng đi, không một ai chận lại xét hỏi, kẻ nào cũng đang mê man.
Từ khi nhận được thông điệp, tôi bận rộn ngày đêm lo kế hoạch phòng thủ quốc gia trong trường hợp tôi phải rời ngôi đi xa một thời gian lâu. Kẻ mà lòng trung thành chưa bảo đảm được thay thế bằng tướng tôi đã tín nhiệm, cửa ải được tăng cường. Những kế hoạch mật và thương thảo ngầm được hoàn tất.
Kể từ đêm ấy, giọng nói và những chữ đã nghe ít khi rời tâm trí tôi. Thái độ của mình cũng làm tôi ngạc nhiên, vì tôi thấy mình mong chờ được nghe lại giọng nói và tiếp xúc với nhân vật đã thốt ra lời ấy. Tôi không hề nhớ trong đời mình đã từng biết cảm giác mà âm điệu lời đó gợi nên, cái kinh nghiệm gần nhất có lẽ là cảm giác thèm muốn tôi có với một vài phụ nữ, khi tôi không sao ăn ngủ lúc chưa chiếm được họ; nhưng cảm giác như vậy chỉ tạm thời, còn sự rung động này kéo dài từ hôm đó. Dường như nó cũng ảnh hưởng tôi theo một khía cạnh khác, vì bây giờ là lần thứ nhất trong bao năm qua tôi ngủ ngon mỗi đêm, và bệnh cũng không trở lại.
Đêm thứ ba đang nằm trên giường tôi bỗng cảm thấy có ai trong phòng, quay đầu lại tôi thấy một người mặc áo phủ kín đứng cạnh giường, và nghe lại giọng nói mà tâm hồn tôi hằng ao ước.
– Này Pharaoh, Ngài nói, vua vẫn muốn biết những bí ẩn của đời mình chăng ? Vua đã khắc khoải trong ba hôm nay nhưng tôi bảo vua rõ, nếu muốn biết Sự Thật ngài sẽ phải đối đầu với chuyện tệ hơn thế nữa.
– Ta đã nhất quyết, tôi trả lời.
– Tốt lắm, ngày mai lúc nửa đêm ngày sẽ thấy có một người ăn mày ngồi ở cửa đền thờ. Hãy đi theo hắn.
Ngày kế tôi cho gọi Besiurt và không để ai vào phòng, tôi nằm trên giường tiếp hắn vì vẫn còn mệt.
– Ta đã tìm ra thầy chữa, hay hơn bất cứ ai, và tối nay ta lên đường.
– Không có ai trong khắp Ai Cập ... hắn lên tiếng.
– Có chứ, tôi nhắc lại lời hắn, có một Đấng mà ông chỉ là bóng mờ.
Tới đây hắn tỏ ra xúc động.
– Vua không bao giờ tìm được Người. Vua điên thật rồi.
Tôi cười nhẹ.
– Không, ta sáng suốt lắm. Có lẽ ông mới điên, điên vì lòng kiêu ngạo của mình. Ta muốn nhắc với ông rằng khi mới lên ngôi, ta đã tới và hạ mình xin ông chỉ dạy về cửa đạo. Ta tin rằng nhờ vào đó có thể đạt sự hiểu biết lòng vẫn ước ao. Ta lại sẵn sàng chịu nhận vào hàng mới nhập môn, ngồi dưới chân ông để được dạy bảo. Nhưng ông từ chối, ông chận con đường chân lý, bảo rằng ta không xứng đáng, rằng máu ta không thuộc dòng chính thống, rằng ta đã tập ma thuật và do đó nhơ uế. Ta tự hỏi, với lòng kiêu hãnh tự cho là mình trong sạch, ông có hỏi ý Đấng đã chọn ta lên ngôi chăng ? Ta chắc là không.
Tôi nghiêng người tới trước, hất mặt sát với hắn.
– Ông muốn giữ quyền lực tối hậu trong tay, Besiurt, ông muốn ta ngu dốt mãi mãi để ông và bọn tu sĩ đền ông có thể sai khiến, nhưng ông không biết ta, ta không phải là kẻ chịu bị xử ép. Nếu đền thờ Ra (chính đạo) không muốn ta làm dơ bẩn chỗ họ thì lại còn môn phái thần Set (tà đạo), chúng chưa tới nỗi ngu lắm. Chúng nhận lời chỉ dạy ta, nhưng ta thú nhận là chúng cũng không có điều mà ta khát khao. Ta chưa có sự hiểu biết đó thật, nhưng ta sẽ có, và khi ngày giờ đến cho ta sở hữu điều ấy, nó sẽ thuộc về ta, thầy trò ông không thế nào cản ta việc ấy.
Hắn muốn nói nhưng tôi giơ tay:
– Không, ngay cả ông cũng không làm gì được ta, Besiurt. Ta tin cầu xin thần thánh cũng không uổng công, cho dù bọn tu sĩ nếu muốn, hẳn sẽ làm thần thánh câm miệng. Ta tin trời xui đất khiến đã cho ta nghe được lời nói thầm của ông, nhắc đến vị Đại Sư của Ai Cập. Ta đã cầu xin Người, và Người đã thuận.
Viên Đại Pháp Sư đứng bật dậy.
– Ngài loạn trí rồi, điều ấy không thể có. Người không hề tiếp xúc với ai ngoại trừ bọn tu sĩ chúng tôi.
– Có thể ta loạn trí thật, chuyện đó ta sẽ biết vì ta đi gặp Người tối nay.
– Đi gặp Người ? Nhưng vua không biết ...
– Sẽ có kẻ dẫn ta đi tới chỗ của Người. Ta sẽ tìm bằng được dù có phải đi tới cùng thế giới.
– Không được, vua là Pharaoh, vua không có quyền rời bỏ Ai Cập.
– Ngồi xuống, tôi nói một cách nóng nẩy, vì hắn đang nện bước quanh phòng giơ hai tay lên đầu. Ta vẫn còn ốm mà giọng ông lớn quá. Nói nhỏ lại.
Không lôi thôi gì nữa, tôi cho hắn hay kế hoạch của  mình. Hắn thoái thác, chống đối mạnh mẽ rằng tôi là kẻ phản loạn, rằng ngôi vua là mệnh trời tôi không có quyền bỏ xó, hắn gợi lòng tham vọng của tôi, mối kiêu hãnh, tình yêu của tôi với Ai Cập, nhưng chỉ hoài công. Trí tôi đã quyết, không còn gì ảnh hưởng tôi được và kiếp sống của tôi đã hưởng mọi điều; tôi thấy những kinh nghiệm ngon ngọt nhất đời giờ như tro lạnh trong mồm. Ý chí của tôi là điều duy nhất mà đối diện với nó, hắn phải cúi đầu nhượng bộ.
Tôi để lại cho hắn cái long ấn, cùng những chỉ thị giải thích việc tôi vắng mặt, nhưng nếu hắn không theo tôi cũng chẳng màng. Rồi tôi cho gọi Re-shep-sut.
– Nàng có nhiều tham vọng, nàng có muốn thay ta cai trị Ai Cập một thời gian ?
Nàng bật cười sung sướng.
– Nhà vua cho thiếp thay chỗ vua ư ?
– Không có ai ta tin được, tìm người khác chỉ là bất đắc dĩ, nhưng ta tin là em trung thành.
– Vua chớ ngại, thiếp luôn trung thành với ngài.
Tôi liếc nhìn nàng đầy thú vị rồi tháo chiếc nhẫn khỏi tay.
– Vậy à, cầm lấy nhẫn này, đưa cho Merhetsu viên chưởng vệ ngự lâm quân, bảo hắn lập tức bắt Nep-hep nhân tình của nàng, quăng vào hố sư tử.
Nàng hóa trắng bệch như chết và đưa tay chận tiếng hét.
– Đừng, thiếp xin vua, và nàng gượng gạo tiếp, như vậy có nên không ? Vì hắn là tai mắt của ta trong đền thờ Ra, ngoài ra hắn còn thuộc về đền thờ Set và biết nhiều phép thuật.
– Ấy là lý do của ta. Ta không muốn bộ hạ ta là kẻ phản nghịch thần thánh mình. Ta muốn thờ ai cũng được, nhưng một tên tu sĩ quèn không thể làm vậy. Hơn nữa, ta muốn lấy lòng bọn tu sĩ thần Ra, chắc chắn họ biết hắn dòm ngó ở đó, và giết hắn để họ vui lòng là chuyện rất nên.
Nàng đưa mắt liếc tôi, chậm chạp đứng dậy đi ra khỏi phòng. Khi nàng trở vào, tôi căn dặn.
– Chuyện hệ trọng là nàng phải giữ hòa khí với Besiurt. Theo lời hắn mọi chuyện, vì hắn mới thực sự là người trị nước trong lúc ta vắng mặt. Hắn sẽ chỉ nàng cách ăn nói cùng việc phải làm. Tai họa sẽ đến với nàng nếu tỏ ra không trung thành, hay nếu ngu dại làm ngôi vua bị đe dọa.
Tôi đưa nắm tay phải cho nàng, Re-shep-sut cúp mọp tới, áp trán vào chiếc nhẫn và nhắc lại theo tôi câu thần chú buộc nàng vào nhiệm vụ.
– Và từ giờ trở đi, tôi nói, hãy ráng nhớ sự trừng phạt nếu vi phạm lời thề. Nàng sẽ không hưởng chút bình an trong đời này cũng như đời sau, trong thế giới này và thế giới khác. Nàng đã kêu gọi cái uy lực nằm trong chiếc nhẫn này, cái tinh thần của tham vọng và ý chí. Bao lâu nàng tuân lời ta thì nó là kẻ nô dịch của nàng, bằng phản nghịch nó sẽ làm chủ nàng. Khắc ghi điều ấy vào tâm khảm và chớ bao giờ quên, hoàng hậu ạ.
Đêm ấy, ăn mặc như một nông dân với áo khoác thô che mặt và cây gậy trong tay, tôi đi ra cổng, ngoài đền thờ Ra. Một kẻ ăn mặc rách rưới đứng dậy khi tôi đi tới và không chào hỏi gì cả, quay ra đường đi về phía sông Nile. Tôi theo hắn. Cát mịn làm chân đi không âm vang. Chúng tôi bước trong đêm đen vì hôm ấy không có trăng. Đến sáng thì vào sa mạc. Cả ngày dưới ánh nắng thiêu đốt chúng tôi đi không nghỉ. Dù người sung sức, chân tôi bắt đầu rã rời. Còn người lạ cứ trơ trơ. Có một lần đi ngang qua giếng nước, hắn ngưng lại cho tôi uống nhưng không nói tiếng nào. Tới chiều đầu tôi choáng váng, khó nhận ra người phía trước đang mải miết đi như cái bóng. Có lẽ tôi đã hóa yếu đuối do lối sống trong cung điện, hay bệnh tình đã làm mất sức của tôi, nhưng đến sáng tôi quỵ, không thể nào lê bước xa hơn nữa. Hắn quay lại, đứng cạnh tôi.
– Đức vua đi khá lắm, hắn nói.
– Cho ta nghỉ một giờ rồi đi tiếp. Tôi trả lời.
– Không cần, chúng ta sắp tới chỗ rồi, đoạn cúi xuống, hắn nhấc bổng tôi lên như nhấc một đứa trẻ và bước đi nhẹ nhàng, cho dù tôi phản đối. Tôi không biết được mang đi bao xa, chắc tôi ngất đi sau đó. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm dài trên giường trong căn phòng yên lặng có ngọn đèn dầu soi tỏ.
Trong ba ngày ba đêm ở đó, có người phục dịch mang thức ăn thức uống, rồi tôi được dẫn vào gặp Ngài, Đấng Chúa Tể của Ai Cập.

Ngài đang ngồi ở bàn xem xét những cuộn chỉ thảo (papyrus) thật xưa, và dù chỉ mặc áo trắng giản dị, không vật gì cho thấy cấp bậc, khi ngài ngẩng lên nhìn tôi, tôi biết mình đang đứng trước một người mà Pharaoh của Ai Cập so ra không đáng kể chút nào. Có một điều gì không hiểu được đã thúc giục tôi quỳ xuống sụp lạy, nhưng tôi ráng hết  sức cưỡng lại. Ngài ra hiệu cho tôi lại gần, tôi đi tới đứng ở cạnh bàn đối diện. Một cảm giác mạnh mẽ êm dịu từ ngài lan ra.
– Tại sao vua tới đây gặp tôi ?
– Để học cách thống trị mọi vật.
– Đền thờ Ra có dạy điều này.
– Các tu sĩ ở đó không chịu tiết lộ, họ bảo con không xứng đáng nên con quay sang thần Set.
Ngài mỉm cười.
– Vua không sợ à ?
– Không có chuyện gì làm con sợ.
– Vua nói đúng, chính sự điều trống rỗng mới là điều làm ngài sợ nhất.
Tôi giật mình, ngài nói trúng tim đen của tôi.
– Vua sợ, ngài tiếp tục, cái lực làm tiêu tán mà vua cảm thấy là ẩn trú trong người.
Tôi rùng mình trước những lời này, tôi không thể phủ nhận chúng. Tôi ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt ngài.
– Chính thế, chính nỗi sợ ấy đã mang con đến với Ngài.
Tôi nghiêng người tới trước, nắm tay đấm lên bàn.
– Con sẽ không để bị hủy diệt, con phải sống, phải sống !
Ngưng một lát tôi thêm, nhưng nói cho mình hơn là cho ngài.
– Con không dám chết, chết là bại trận.
– Nhưng ai cũng phải chết, tiếng nói của ngài yên lặng vọng về.
Tôi lắc đầu.
– Không, thực ra con không sợ chết, con đối diện với cái chết bao lần mà có sợ gì đâu. Nhưng có điều lớn trội hơn, chậm chạp hơn ... Sự tiêu tan chắc ? Nhưng nó là gì vậy ?
Tôi dang tay về phía ngài, đột nhiên thấy chán nản.
– Ngài là kẻ thông minh hơn con, Ngài hãy cho con hay là có gì trị được nỗi bất mãn kinh niên, lòng khát khao nóng cháy, niềm tuyệt vọng chán chường, cái nọc độc quá quắt đang ăn mòn sức mạnh của con chăng ? Phá tan sự nghiệp và khiến cho những chiến công của con không có nghĩa gì ? Ngài có thể chỉ cho con cách thoát khỏi những giây phút chán ngán tột cùng làm cho mọi việc hóa trống rỗng, thoát sự đau đớn, căn bệnh tâm thần và thân xác chăng ? Tại sao trong bao nhiêu người chỉ mình con mắc phải ? Tại sao con bị chọn trong số bao người ? Người khác không biết đến sự dằn vặt đó, mối hăm dọa không ngừng nghỉ, nỗi lo sợ điều trống rỗng hư vô còn đáng sợ hơn cái chết. Con là Pharaoh của Ai Cập ư ? Mọi tài nguyên đất nước là của con, vậy mà kẻ khờ dại và bọn nô lệ còn sung sướng hơn con.
– Họ có tình thương, Ngài trả lời.
– Tình thương ? Ha, con mệt mỏi với đàn bà và trò õng  ẹo của họ lắm rồi.
– Vua có biết yêu thương là gì không ? Ngài hỏi nhẹ nhàng.
– Con biết nó là khuyết điểm, không phải ưu điểm, tôi trả lời đầy vẻ khinh miệt, con biết nó mang tai họa đến cho nhiều người mà không hề mang lại thỏa mãn. Con không cần tình yêu, chỉ muốn có hiểu biết, uy lực, điều bí ẩn của đời sống, bởi con biết rõ là bao lâu chưa có những điều này con không bao giờ chữa được bệnh mình. Tình thương không giúp gì cho con đâu.
– Không, tình thương không giúp gì được cho vua trước khi vua giúp nó, bạn à.
Mắt ngài nhíu lại cho tới khi như ngọn lửa xói vào tôi.
– Vậy ra ngài đến với tôi là để có quyền lực, có được sự bí ẩn của đời sống ? Câu trả lời của tôi là chừng nào vua chưa biết thương yêu thì chúng tôi chưa thể dạy vua điều gì. Trao cho vua món quà quí báu của chúng tôi để làm chi khi vua không đủ sức hiểu chúng, đừng nói là sử dụng chúng ? Cái hạt giống trừ khi nẩy mầm thì vẫn vô dụng, điều vua tìm kiếm cũng y vậy, bao lâu chưa được thấm nhuần năng lực thương yêu, nó không có ích gì cho vua hay cho ai cả.
Tôi lắng nghe, nhăn trán bực bội pha lẫn sự hoang mang. Hỏi mà chỉ được trả lời khơi khơi rằng tôi phải biết yêu trước đã thì thật dễ giận; nhưng bản năng bảo tôi rằng ngài biết chuyện ngài đang nói. Chưa chi tôi đã thấy bị hấp dẫn bởi trí tuệ của ngài, vì rõ ràng là ngài làm được nhiều chuyện mà với trọn hiểu biết của mình tôi đã không làm được. Có một điều gì bí ẩn ở đây mà tôi muốn khám phá, hoặc bằng cách giả vờ thật lòng, hoặc cách khác.
– Được, được lắm, tôi cười nói, ra vẻ đầy khiêm nhượng, nếu ngài có thể thuyết phục con rằng điều ngài nói là đúng sự thực, và lòng thương yêu là chìa khóa của minh triết, thì con rất sẵn lòng làm thử. Con phải làm gì trước khi được dạy điều bí ẩn ?
– Vua phải gỡ đi hàng rào mà tội lỗi của ngài đã dựng nên giữa ngài và cánh cửa vào huyền thuật; ngài phải biết thương yêu và phụng sự nhân loại, trả lại những món nợ ngài đã tạo ra do lòng hận thù và vô minh.
– Khó hiểu quá, tôi đáp nửa có ý trách móc, nhưng con chấp nhận điều kiện của ngài. Con sẽ làm hết. Hãy chỉ cho con hàng  rào mà ngài vừa nói để con tháo nó  xuống, những món nợ để trả cho xong. Bởi năng lực con mạnh vô song, kho tàng con đầy tới nóc, và ý muốn của con là luật trong Ai Cập.
Ngài đứng dậy. Tôi đã cao mà ngài lại vượt hẳn tôi.
– Này vua, ngài nói to, vua không biết mình đang nói gì, những lời ấy cho thấy vua hoàn toàn không đủ tư cách để làm việc này. Trí óc vua chỉ quanh quẩn trên mặt đất, và sức mạnh vua ư, nó không hơn đứa bé bao nhiêu. Chẳng phải mới đây vua vừa thú nhận không thể thắng sự điên dại chụp xuống đầu vua như đám mây sao ? Vua có trị được tính khí bất thường, sự tuyệt vọng của mình chăng ? Dù khoác lác thế mấy đi nữa, vua cũng bị sự huênh hoang chế ngự, bị cái tôi sai khiến; vua là nô lệ, không phải là chủ nhân ông.
Ngài đi ra cánh cửa và nói.
– Theo tôi.
Chúng tôi đi qua nhiều hành lang, rồi sau cùng đi vào phòng rộng hình tròn, ở giữa có một quả cầu phát ra ánh sáng mầu xanh nhạt; ngoài ra gian phòng chìm trong bóng tối. Ngài gọi tôi đứng trước quả cầu, đoạn ra sau lưng, đặt tay lên trán tôi.
– Vua hãy nhìn sâu vào quả cầu, ngài bảo, và coi cho kỹ.
Mới đầu, nó như ngắm dòng sông Nile, trong suốt mà lại đầy ánh sáng, kế đó ánh sáng cuốn hút tôi vào sâu mãi. Tôi quên đi hiện tại, thấy mình đi ngược về quá khứ, về châu Atlantis, làm Cheor trở lại. Mọi việc - không chừa hành động nào - được diễn cho tôi xem rồi sau cùng, tôi chợt khám phá mình đang đứng trước quả cầu như cũ. Tiếng nói của ngài làm tôi trở về thực tại.
– Hãy kể tôi nghe, ngài bảo, vua cảm thấy gì trong kiếp sống vừa xem.
Tôi nhíu mày ngập ngừng, cố gỡ những sợi chỉ rối của ký ức.
– Con nghĩ, sau cùng tôi bảo, ít nhất nó làm con ý thức là thực sự con không vĩ đại như đã tưởng. Con luôn luôn cho mình đầy quyền lực, tinh luyện thần thông, nhưng phép thuật mà chúng con luyện ở đây chỉ là trò trẻ so với Atlantis xưa kia. Ô, con quên biết bao phép mầu ! Thật vậy, ở đó chúng con biết hết điều bí ẩn của vạn vật, y như là thánh sống, chẳng những trái đất này là trò chơi trong tay mà cả chư thiên và quyền lực của họ cũng thuộc về bọn con. Trí óc người bây giờ so ra vụng về như dân bán khai, hồi đó cái gì cũng vĩ đại cả; Ai Cập với chúng con xem ra to lớn nhưng bây giờ, con thấy nó chỉ là hạt bụi trong thế giới. Còn biết bao nhiêu điều con phải học.
Tôi nhìn lên thấy mắt ngài như muốn xuyên thủng người tôi để tìm hiểu con tim sâu kín.
– Vậy là vua không cảm thấy gì ngoài sự nuối tiếc, không xấu hổ về chuyện đã làm, không rùng mình ghê sợ ?
Tôi cười lớn, hứng chí vì những gì đã thấy nên trong phút chốc bao nỗi lo sợ được tạm quên.
– Tại sao con phải xấu hổ, trừ ra việc cái tôi này bây giờ chỉ được coi là thần mà không phải là chúa tể vũ trụ ? A, phải chi bây giờ con nhớ lại được những điều đã biết khi xưa ...
–  Nó không gây ấn tượng gì cho vua sao, ngoại trừ nỗi ước muốn có thêm hiểu biết ?
Ngài hỏi có chút buồn rầu. Tôi yên lặng một lát, cố gắng hòa mình sâu hơn nữa với quá khứ đó. Khi hình ảnh lướt qua đầu, một gương mặt hiện ra nổi bật hơn những người khác, gợi nên trong lòng tôi một cảm giác xốn xang không định nghĩa được.
– Anh Shahballazz, cuối cùng tôi bảo, có đang sống lúc này không ? 
– Vua muốn biết để chi ?
– Con thấy bị anh lôi cuốn, nếu tìm được thì con muốn đem anh vào làm việc ở triều, con tin cẩn anh ... Tôi ngập ngừng. Có lẽ điên thật, nhưng nghĩ tới anh gợi cho con một cảm giác nhớ nhung lạ lùng, tương tư ...
Tôi nhún vai bất lực, không thể diễn tả cảm xúc trong lòng.
Trong lúc tôi nói chuyện, ngài ngồi ở băng đá được gắn vòng theo phòng và yên lặng suy nghĩ. Nhưng trong sự yên lặng kỳ lạ và căng thẳng, tôi cảm như trí ngài đang thử thách trí tôi theo một cách bí hiểm.
Rồi ngài ngẩng lên, đôi môi nghiêm khắc chợt nở nụ cười.
– Điều vua cảm thấy là tình thương chăng ? Ngài gợi ý.
– Có thể lắm, tôi thú nhận, con chưa bao giờ trong đời cảm thấy cần ai nhiều như vậy.
Đột nhiên tôi băng qua gian phòng và đứng trước mặt ngài.
– Hôm nay Ngài đã nói nhiều về tình thương, Ngài đã nói rằng con chỉ đạt tới mục đích bằng cách phụng sự người khác và yêu thương họ. Đối với con chuyện ấy thật điên rồ. Làm sao con thương hết mọi người, thương những kẻ ngu ngốc mà con khinh miệt và kẻ thù mà con căm hận ? Bây giờ chỉ có anh là con có thể thương, và không chừng con sẵn lòng phục vụ cho anh nữa, nếu cần, và cả Ngài, nhưng phụng sự mấy người khác ... Thế nào đi nữa, con không thấy làm sao yêu thương có dính dáng chi đến những quyền uy mà con ao ước, trừ phi Ngài dùng chữ 'yêu thương' như là ký hiệu cho một cái gì khác, một kinh khủng nào khác, hay cho một vị thánh thần ẩn danh nào. Điều mà người đời gọi là 'tình thương' thì chẳng có ích gì cho con đâu. Sự bí mật mà Ngài muốn dấu là việc gì ?
Ngài ngẩng đầu và nhìn tôi.
Rồi một chuyện xẩy ra mà tôi không có tên để gọi. Nó giống như một ánh sáng chóa mắt phát từ ngài và bao phủ tôi, đem tôi trong một giây tích tắc vào tâm thức ngài.
Chỉ trong tích tắc thôi và cảm xúc thiêng liêng biến đi, mất hẳn. Tôi đứng đó bàng hoàng, trống rỗng, chịu thua, như tên tù đã thoát ra được ngày nắng tươi rực rỡ lại bị ném trở vào hầm tối đen ngòm.
Lạ lùng, tôi quay sang Đấng đã cho tôi cái nhìn không thể xóa bỏ, mang tôi vào một trạng thái tâm thức mà tôi không bao giờ có thể ngờ và đã khởi sự hóa nhạt nhòa, hư ảo, không thể hiểu được. Tôi rúng động khắp cả người, phải dựa vào tướng mới vững.
– Phép thuật gì vậy ? Ngài đã làm gì con. Tôi chậm chạp hỏi. Ngài không trả lời ngay, nhưng ngồi chăm chú nhìn tôi. Sau cùng, dường như ngài được thỏa mãn.
– Vua tưởng tượng, mãi sau ngài đáp, là vua có thể đến đây, học hết bí ẩn của chúng tôi rồi quay về, dùng những hiểu biết đó làm lợi cho mình. Vua không biết là chuyện ấy bất khả, nhưng vì vua đã có ý đó, tôi thấy cần phải tìm hiểu lòng đam mê chân lý và hiểu biết có thực sự phát sinh từ óc ham muốn quyền lực, hay do nỗi sợ hãi mà thôi, hay có còn hậu ý nào ẩn sau bề mặt ấy. Do đó tôi thử ngài bằng cách gợi nên trong tâm ngài ký ức về Shahballazz. Ngài lập tức bị thu hút, đáp lại cái nốt yêu thương mà hình ảnh cũ làm ngân vang trở lại trong tim.
'Nhưng như vậy chưa đủ, vì tình thương của ngài có thể chỉ là sự biểu lộ của ham muốn ích kỷ mà không là gì khác; do đó tôi bao phủ ngài trong một khoảnh khắc với ngọn lửa trắng của tình yêu cao thượng. Gặp lửa này mọi độc ác xấu xa sẽ bị cháy tan. Vì ngài không bị tiêu hủy khi nốt ấy vang động trong hào quang, vì ngài không thụt lui kinh hoảng và trốn chạy, thí nghiệm cho tôi thấy là trong ngài tình thương vẫn còn cháy sáng, dù bên ngoài không có dấu hiệu nào. Do thế tôi được phép tiết lộ cho ngài vài điều mà đáng lẽ phải giữ kín trong nhiều kiếp nữa. Vì ngài nên biết rằng, nếu ngài đã chối bỏ hắn và tôi, tôi không có cách nào khác hơn là trả ngài về triều, và chẳng bao lâu những lực đang cầm tù ngài bây giờ sẽ hoàn toàn chế ngự.
– Bây giờ con sẵn lòng tin ngài, tôi trả lời, là uy lực huyền bí mà ngài gọi là 'tình thương' quả thực làm được phép lạ và rất có thể chữa lành cho con, nhưng con vẫn không hiểu vai trò của Shahballazz trong chuyện này, trừ phi là để giúp con hiểu rõ điều huyền bí. Lúc này hơn bao giờ hết, con nhất quyết học hỏi để đạt quyền năng đó.
– Hắn sẽ dạy vua, ngài trả lời, nhưng có lẽ không theo cách mà vua tưởng. Tôi muốn vua cho biết, đời vua sẽ hạnh phúc hơn chăng nếu có hắn bên cạnh ?
Tôi đứng yên một lát, cân nhắc lời ngài. Quả thật lạ lùng rằng tại sao hình ảnh người ấy đã chiếm trọn tim óc tôi, nó đã phơi bầy cho tôi thấy sự thiếu thốn trong đời mà tôi chưa bao giờ ý thức. Tôi không hề có bạn chân tình, chưa bao giờ yêu hay tín nhiệm một ai. Có lẽ Re-shep-sut là người duy nhất thân cận tôi, những đàn bà khác chẳng có nghĩa gì: đam mê, buồn chán rồi lãng quên; nhưng tôi chưa bao giờ tin cẩn nàng. Từ hồi nào tới giờ tôi chỉ có một mình chống đỡ với đời, giữ bộ hạ trung thành bằng cách làm chúng sợ, bằng sức mạnh, biết thực rõ là chúng sẽ rời tôi ngay phút tôi bị yếu thế, hay khi thấy đầu quân nơi khác lợi hơn. Nhiều mối sợ hãi của tôi bắt nguồn từ ý thức này. Nếu có ai mà tôi biết là vẫn một dạ trung thành với tôi khi tôi đau ốm, ai mà trong những giai đoạn càng lúc càng vô vọng này, chống đỡ tôi khỏi những kẻ nội thù, ai mà tôi có thể thổ lộ tấc lòng, ai thương yêu tôi sâu đậm. Phải, nhu cầu tôi là thế, tôi thấy ngay như một tia chớp. Có sự an toàn. An toàn ? Ở đâu cũng có tranh chấp bên trong và bên ngoài, ở đâu cũng có bất trắc, bây giờ cũng như về sau. Tôi muốn có một sự gì, một ai vững chãi hơn, lâu bền hơn, hay hơn chính tôi. An toàn ... yêu thương ... đây phải là câu trả lời cho vấn đề của tôi chăng ? Hai điều ấy là một ư ? Tôi ngẩng đầu. Đối với tôi khi muốn điều gì là lập tức thực hiện nó.
– Đúng vậy, tôi đáp, con cần người đó làm tâm phúc, con phải tìm hắn cho bằng được.
– Điều gì cũng có thể tìm được nếu đi đúng hướng. Ngài nói lặng lẽ.
Đang bách bộ tới lui tôi chợt đứng lại.
– Vậy là con sẽ gặp hắn chăng ?
Ngài tiếp tục lặng yên, tôi nhăn trán.
– Ngài không nói gì sao ? Ngài có biết hắn ở đâu không ? Xin chỉ cho con đường đi tìm hắn.
– Tôi đã thưa với vua, con đường đúng là con đường thương yêu.
Tôi phác một cử chỉ nóng nẩy.
– Nhưng điều con cảm thấy là tình thương. Con thấy là con không thể sống nếu thiếu hắn ta. Nếu ngài không cho con hay hắn ở đâu thì con sẽ làm tan hoang thế giới để tìm ra hắn.
– Thương yêu, ngài nhắc lại và cười cay đắng, con à, con chưa biết thương yêu thật sự là gì, nhưng tình yêu của con là tình cảm cao thượng nhất có trong tim, nên không đáng chê trách hoàn toàn.
Ngài lắc đầu.
– Ô, Pharaoh. Lòng kiêu hãnh, ngạo mạn làm con mù quáng tự lừa dối mình biết bao. Nếu không vì sự phát triển mà ta thấy được nơi con, và biết còn chút hy vọng cho mầm thiêng liêng nơi con, hẳn ta đã xua con trở về.
Khi tôi đứng yên thắc mắc, nhìn ngài giận dữ, ngài chỉ vào chỗ bên cạnh và bảo.
– Lại đây, và ta sẽ cố gắng giảm bỏ sự u mê của con, bằng cách cho con rõ yêu thương nghĩa là gì, cùng hố gì chia rẽ vua với tình thương.
Tôi đi lại, cảm thấy như đứa trẻ bị rầy. Sự chán nản đã tiếp nỗi hân hoan của vài phút trước, và tôi lại cảm thấy cơn đau dữ dội lúc xưa trong đầu, báo trước sự bùng nổ, nhưng đây là lần đầu tiên tôi không sợ, ở đây không có kẻ thù nào có thể lợi dụng sự đau yếu của tôi. Tôi dựa đầu vào tường và nhắm mắt lại. Dần dần cùng với giọng nói của ngài, cơn đau giảm bớt và chẳng bao lâu tôi lại được bao phủ trong một sự an lành chưa hề biết trước đây.
– Trọn những kiếp sống xưa, ngài bắt đầu, con có lòng đam mê quyền lực, bị mù quáng bởi lòng kiêu hãnh quá độ; con đã theo đuổi không gì khác hơn tánh cao ngạo. Như con thấy, để đạt tới chuyện đó con về phe với những lực huyền bí ở Atlantis, chúng là lực trên đường đi xuống, có tính phân rẽ và do đó thù nghịch với nhân loại. Do vậy, ai tiếp tục sử dụng ảnh hưởng tàn phá của chúng là đang từ từ giảm bớt sinh lực bên trong người mà không hay biết, thay vì tăng cường nó theo Thiên cơ. Với mỗi kiếp như vậy, sinh lực người đó càng lúc càng ít, quyền năng càng lúc càng giảm, niềm hy vọng tiến bộ càng lúc càng xa vời; ai có mù mới không thấy, vậy mà ai như thế lại không mù do ảo ảnh gây ra khi tiếp xúc với những lực đó; cứ tiếp tục con đường ấy cuối cùng họ sẽ bị diệt vong.
Tôi ngồi dậy, hít một hơi lẹ làng. Ngài ngó tôi.
– Phải, ngài nói, mối sợ ám ảnh con suốt cả đời là một ký ức. May mắn cho con là ký ức này tồn tại. May vô cùng. Bằng không con hẳn không bao giờ ước muốn thoát khỏi sự tù đầy do mù quáng gây ra, sự mù quáng con tự tạo cho mình. Có thể con không bao giờ nhận biết sự thiếu thốn của mình, và cũng không hề hy vọng đi tới cái nguồn thực sự của uy quyền, cái tình thương làm kết hợp, sáng tạo, là tinh hoa của trọn ý chí và trọn quyền lực, và chỉ nhờ nó mà con người có thể tiến hóa cho tới khi họ trở nên toàn thiện. Con đã khinh rẻ tình thương, vậy mà trong một kiếp tình thương đã cứu con được con, giống như nó sẽ cứu gần trọn nhân loại, chỉ trừ một thiểu số. 
Ngài dừng lại quá lâu khiến tôi phải cất tiếng.
– Làm sao nó cứu được con ? tôi hỏi. Ấy là chuyện hồi nào, và điều gì đã xẩy ra từ đó cho tới ngày nay ?
– Ta có thể cho con xem, ngài trả lời, nhưng thấy lại những quãng đời hư hỏng, phí phạm thì có ích gì ? Đó là những kiếp làm nô lệ và sa đọa, những kiếp mà do lòng cao ngạo con hóa mù quáng không thấy thực trạng của mình. Con chìm xuống mãi mang lấy những hình hài càng lúc càng đồi bại, dã man, cho tới khi con không gì khác hơn là hiện thân vô hồn của mọi dục vọng xấu xa và phá hoại mà con đã tạo ở Atlantis.
'Do các mối dây mà con chưa thể hiểu, có những người ràng buộc với con và vẫn thương yêu con; họ chứng kiến việc con sa vào hố thẳm mà bất lực không giúp được, vì không có gì trong lòng con đáp ứng với làn rung động của tình thương và chân lý mà họ tuôn rải lên người con. Nhưng không ai bị bỏ rơi hoàn toàn cho đến khi mất hết hy vọng, thành ra sau này Shahballazz, người mà con đã thực sự thương yêu trong quá khứ xa xăm hơn cả thời Atlantis, được cho phép làm chuyện hy sinh tột cùng, là sinh ra trong một thân xác thô kệch hết sức, để có thể tiếp xúc với con ở trong cảnh thấp kém của con.
'Hắn sa vào chỗ nhớp nhúa cùng với con, và từ từ trong suốt kiếp dài nhọc nhằn, từ cái xác thân của kẻ là cặn bã xã hội hắn đã chọn để ngụ, Shahballazz không ngừng tuôn vào con tình thương, tìm cách đập lớp vỏ dầy nặng đang bao bọc, hầu cho sự sáng lọt vào. Tựa như người ta thổi vào đống lửa sắp tàn và cuối cùng làm cho nó phựt sáng, hắn cũng đang thổi vào mớ than mà ai không nhìn với con mắt tình thương sẽ cho là đã lụi. Và hắn thành công, vì trong kiếp ấy con tuân theo một bản năng mù quáng, hy sinh đời mình cho hắn mà cũng là cho chính mình nếu con biết được.
'Vì hành động ấy, khi qua đời thay vì chìm lập tức vào cõi thấp nhất của tình cảm và ở đó như trong mấy kiếp trước, sống giữa những hình ghê tởm con đã tự tạo bằng tư tưởng, con đã có thể bước lên nấc cao hơn. Con tái sinh với ký ức mang theo chuyện thanh bai đẹp đẽ, và ký ức đó theo đuổi con, ngay cả khi con đầu thai làm kẻ nô lệ da đen mọi rợ. Cuộc tranh đấu hướng thượng bắt đầu. Lần này rồi lần kia con tái sinh để có sự hiểu biết mới mẻ cho đến khi sau cùng, một lần nữa vua lại được phép có quyền hành trong tay. Những quyền năng trước đây bị giữ lại bây giờ được trả lại cho con để thử thách, và để xem con đã học được gì. Do đó vua sinh vào dòng Pharaoh, nhưng có bà mẹ cho con tính dũng mãnh và tàn nhẫn, vốn là tính di truyền của giống dân bà, mà còn là một phần bản chất của con, vì con người luôn luôn là điều họ tự tạo cho mình.
'Nhưng có nhiều hiểm nguy ở đây, vì Luật định rằng khi một ai có cơ hội sử dụng những quyền năng cổ xưa, cùng lúc ấy những lực nhân quả cũng được phóng thích, có liên quan đến quá khứ ấy. Thế nên trọn năng lực tàn phá mà con đã cố tình ràng buộc vào mình đã trở lại, cùng lúc cơ hội nắm quyền hành; đó là những kẻ thù đã tấn công con lúc này, và đã gần thành công trong việc phá hủy thể xác cùng trí não con. Đó là những điều ở giữa con và chuyện mà linh hồn con ao ước: tình yêu, hạnh phúc, an toàn, tiến bộ, niềm hy vọng giúp ích thế gian, cho đến khi con kiểm soát và tiêu diệt chúng; vì trừ phi một người có thể trị chính mình và những đam mê trong lòng, người ấy không khác gì hơn tên đầy tớ.
Khi ngài dứt tiếng tôi ngồi bất động một lúc lâu, tay qua trán, tìm thế ra khỏi hố thẳm đen tối mà sự tiết lộ của ngài đã kéo tôi vào. Bây giờ tôi hiểu tại sao có những cơn sợ hãi không thể hiểu được. Nhưng hiểu chi làm tăng chúng hơn bội phần. Hơn lúc nào hết tôi cần sự an ủi và sức mạnh mà anh Shahballazz là tượng trưng.
Vị Thánh Sư hẳn đọc được ý nghĩ tôi.
– Con nên biết ngay rằng Shahballazz không có ở đây, ngài nói, mà dù hắn có đây, việc gặp hắn là chuyện bất khả, bởi lúc này mức rung động của con quá đỗi thô kệch và dơ bẩn. Chúng chỉ làm tổn hại hắn và ngăn trở việc làm của chính hắn. Sự hy sinh hắn đã làm cho con chỉ được cho phép một lần mà thôi. Việc phải làm là con vượt lên gặp hắn, bằng cách tinh lọc chính mình cho tới khi có thể làm bạn đồng hành với hắn. Ngày ấy chỉ đến khi con đè bẹp kẻ thù trong chính người con. Chúng rất thật và mạnh vô cùng. Cơ thể con quá yếu không đủ sức thắng chúng trong kiếp này - chúng có thể vật ngã con.
Lời ngài đánh vào lòng kiêu hãnh của tôi và lập tức trọn người tôi nổi lên ứng chiến. Sao ! Chúng dám chận đường tôi ư, những lực này, những kẻ thù vô dạng ? Chúng dám chia rẽ tôi với người bạn tôi ước ao, theo đuổi tôi đến chết, chết cô độc, điên cuồng ư ? Mà sau cuộc đời này chúng vẫn ngăn chận không cho tôi nếm hạnh phúc, uy lực, tình yêu à ? Hình ảnh lần lượt diễn ra trước mắt, tôi thấy chúng như thật, đầy vẻ chế diễu; chúng là hình dạng những kẻ tôi đã ghét bỏ và khinh miệt. Và y như trước khi xáp chiến, hay khi ý muốn bị ngăn chận, tôi thấy trong lòng cuồn cuộn trào dâng cái năng lực hủy hoại đã từng thúc đẩy tôi tiến lên từ hồi nào đến giờ, sự bừng bừng giận dữ đá sập mọi chướng ngại, đè bẹp mọi đối kháng. Đầu tôi chợt bùng nổ, tim đập mau lẹ gần như muốn nghẹt thở, lực bùng ra khắp người như làm tứ chi nở to hẳn ra, cho tôi sức lực của mười người. Nhưng nỗi giận dữ ngất trời ấy không hướng ra ngoài mà quay vào trong chống lại chính tôi, chống lại sự yếu mềm của tôi, kháng cự lại những năng lực bí ẩn đã dám tấn công trí não, thân thể tôi. Vậy chứ tôi không làm chủ, là chúa tể thân xác tôi sao ? Tôi đứng bật dậy, nỗi e ngại và lo lắng đã biến mất trước nhu cầu phải hành động. Đây là một thế giới phải chinh phục, đây là kẻ đối thủ xảo quyệt, mạnh hơn những bộ lạc đã gây hấn với Ai Cập, hay hơn cả chính thần Set.
– Con sẽ trị chúng, tôi hết, chỉ cần dạy con phải làm sao, theo cách nào để phá tan hàng rào phân cách con với điều lòng con mơ ước.
– Ta chỉ có thể dạy con phép tự chuẩn bị trước khi vào cuộc, ngài trả lời, không ai có thể khuất phục chúng trừ con. Nhưng trước khi làm vậy, ta muốn con xem xét kỹ việc sắp làm, bình tĩnh sáng suốt nhận định với tất cả sự hiểu biết, mà không với sự mù quáng đam mê.

Xem Tiếp Vòng Tái Sinh: VTS-AI CẬP (2)