CHÚ NGỮ
ChúNgữ
Tổng Quát
Chú ngữ - mantram là những câu, chữ và âm thanh mà do ảnh hưởng nhịp nhàng của nó mang lại kết quả không thể có bằng cách khác. Có rất nhiều mantram không thể đề cập hết, ở đây ta chỉ nói sơ qua các loại mantram đang được sử dụng hay sẽ dùng mai sau nơi ai có đặc ân dùng nó.
Các mantram hoàn toàn dựa trên thánh ngữ OM. Khi chúng được xướng lên một cách nhịp nhàng và theo cung bậc đã định sẽ cho ra kết quả, như cầu xin được chư thiên che chở; chúng đưa tới một số ảnh hưởng hoặc hữu hình hoặc vô hình. Hiện thời các mantram này được dùng nhiều ở phương đông và tôn giáo đông phương hơn là tây phương. Khi quyền lực của âm thanh được hiểu rõ hơn và có nghiên cứu về ảnh hưởng của nó, mantram sẽ được dùng nhiều hơn ở phương tây.
Một số mantram rất cổ xưa và khi xướng lên bằng Phạn ngữ nguyên thủy cho ảnh hưởng hùng mạnh không sao tin được. Chúng hùng mạnh đến nỗi người thường không biết và chỉ được truyền miệng khi chuẩn bị việc chứng đạo (initiation còn gọi là điểm đạo).
Có một số ít vài mantram rất bí truyền bằng tiếng Sensa nguyên thủy, được giữ gìn trong Thiên đoàn - Hierachy từ thuở mới thành lập khi mới có 35 Vị. Chúng họp thành chìa khóa để mở ra các bí ẩn của mỗi cảnh trong năm cõi thuộc đường tiến hóa của con người. Bậc đạo sư được chỉ dẫn cách dùng chúng và có thể sử dụng chúng vào đúng chỗ theo một số điều kiện. Đó là những mantram hùng mạnh nhất được biết trên địa cầu cho ảnh hưởng rộng lớn. Như ta biết, làn rung động mỗi cõi đáp ứng với một cung bậc và nốt khác nhau, và vật chất thuộc cõi ấy được uốn nắn theo cách xướng những chữ theo một cách đặc biệt, phát ra có độ cao thấp riêng. Khi được xướng lên như vậy, vị đạo sư nhập vào tâm thức của cõi ấy và tất cả những gì chứa đựng trong đó. Chú ngữ bằng bất cứ ngôn ngữ nào cũng dựa trên nguyên tắc này, cho dù khác xa và không giống nhau thế mấy tới độ như vô dụng.
Vài mantram nguyên thủy này được các Vị trong Thiên đoàn đồng xướng vào những dịp trọng đại, hay khi cần có sức mạnh kết hợp của các ngài để mang lại kết quả mong muốn. Những biến cố trọng đại được mở đầu bằng việc xướng lên nốt chính của lễ với việc dùng chữ thích hợp; mỗi mẫu chủng có hợp âm mantram mà ai làm việc với mẫu chủng ấy biết được. Khi tham thiền, người đệ tử có thể dùng mantram bằng Phạn ngữ để khiến Thầy của họ chú ý. Những mantram này được ngài truyền cho họ và bằng cách ấy họ kêu gọi Thầy để được giúp đỡ.
Một mantram khi được xướng đúng cách tạo nên một khoảng chân không trong vật chất tựa như cái quặng, thành hình giữa một bên là người xướng và bên kia là người mà âm đi tới. Khi ấy ta có đường liên lạc trực tiếp. Nay bạn thấy vì sao những mantram này được giữ cẩn mật, các chữ và chìa khóa được cất kỹ. Việc dùng chúng không phân biệt sẽ chỉ mang lại tai họa. Người ta cần đạt tới mức tiến hóa nào đó, và có làn rung động tương ứng phần nào trước khi có đặc ân là được truyền một mantram để có thể dùng mà kêu gọi Thầy mình.
Đi lên cao thì cũng có bẩy mantram mà những đấng Cao Cả trong Thiên đoàn biết, các ngài dùng nó để kêu gọi các vị Hành Tinh Thượng đế. Cao hơn nữa thì ta có mantram của địa cầu dùng nốt chính của trái đất và một câu biểu lộ sự tiến hóa của ta. Mỗi hành tinh có một nốt hay câu như vậy để các Đấng hướng dẫn chúng có thể tiếp xúc với vị Hành Tinh Thượng đế của nó. Tới phiên bẩy Vị sau có nghi thức riêng của các ngài để nhờ vậy liên lạc với Thái Duơng Thượng đế của thái dương hệ. Việc này luôn luôn được thực hiện bốn lần trong năm, hay khi có chuyện cấp bách phải dùng.
Mỗi năm một lần trọn Thiên đoàn dùng một mantram tổng hợp tạo nên khoảng chân không giữa thành viên thấp nhất và cao nhất trong Thiên đoàn ấy và đi lên cao hơn nữa, qua bẩy Hành Tinh Thượng đế để tới chính Thượng đế. Nó đánh dấu phút giây có nỗ lực tinh thần và sức sinh động mạnh mẽ nhất trong năm, và ảnh hưởng của nó kéo dài suốt những tháng giữa hai lần vang lên mantram. Ảnh hưởng của nó có tính vũ trụ, và liên kết chúng ta với tâm của vũ trụ của ta.
Mantram các Cung.
Mỗi cung có chú ngữ và âm thanh riêng, cho ảnh hưởng thiết yếu đối với những ai thuộc về cung này. Ảnh hưởng có được khi ta tham thiền và dùng mantram như vậy có ba mặt.
- Nó liên kết và liên hợp một người với Chân nhân của họ.
- Nó khiến họ tiếp xúc được với Chân sư của mình, và qua đó với những đấng cao hơn tùy theo cung của họ.
- Nó liên kết họ với nhóm linh hồn của mình, và kết hợp tất cả làm một khối chung, rung động theo cùng một nốt.
Những mantram này là điều bí mật của ba lần chứng đạo sau cùng, và người ta không thể xướng chúng trước đó mà không có phép, tuy họ có thể đôi lúc dự vào việc xướng mantram dưới sự hướng dẫn của vị Thầy.
Khi một chú ngữ được xướng nó sẽ có ảnh hưởng trực tiếp lên một trong ba thể của người xướng. Các chú ngữ này đang được dùng nhiều tuy bị biến thể đôi chút, trong các tổ chức tôn giáo ở khắp nơi. Ngày kia khi có vị Cao Đồ làm chủ tất cả những tổ chức ấy, các chú ngữ xưa sẽ trở lại dưới dạng thuần khiết cho ta.
Rồi cũng có những chú ngữ dùng trong việc chữa bệnh, hay để khai mở các quyền năng tâm linh. Vài mantram cho tác động trực tiếp lên những huyệt của cơ thể, và về sau sẽ được dùng theo sự chỉ dẫn của vị Thầy để tăng làn rung động, để làm di chuyển ở chiều đo thứ tư, và để hoàn tất việc làm các huyệt sinh động.
Có quá nhiều chú ngữ nên tìm hiểu tất cả chúng chỉ mất thì giờ. Ta đề cập đến mantram vì chúng có liên quan đến việc tham thiền, nhưng mai sau khi con người tới một mức phát triển nào đó và khi thượng trí có ảnh hưởng lớn hơn, những mantram huyền bí này - được truyền và xướng lên đúng cách - sẽ là một phần trong chương trình học của người học đạo. Họ sẽ bắt đầu việc tham thiền bằng cách xướng chú ngữ cung của mình, để nhờ vậy điều chỉnh vị trí của mình trong hệ, sau đó là mantram kêu gọi Chân sư của họ và khiến họ tiếp xúc với Thiên đoàn. Rồi họ sẽ bắt đầu tham thiền với các thể được điều chỉnh, và với khoảng chân không được tạo ra nay cho phép dùng như là phương tiện để liên lạc.
Mantram Dùng cho Thiên Thần và Tinh Linh
Trên thực tế, mantram dùng để triệu thỉnh thiên thần là các vị tạo tác và tinh linh là hàng sinh vật dưới người thì là một. Nhưng trước tiên ta cần rõ sự phân biệt giữa hai loài là sao.
Bản chất của tinh linh là dưới người. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc ở cõi tình cảm không bảo đảm là chúng thuộc về đường tiến hóa đi lên, ngược lại chúng nằm trên đường tiến hóa đi xuống. Chúng có mặt ở mọi cảnh giới và tinh linh thuộc cõi ether như chú lùn, gnome và brownie được biết tới nhiều. Nói tổng quát ta có thể xếp chúng vào bốn nhóm.
- Tinh linh đất
- Tinh linh nước
- Tinh linh khí
- Tinh linh lửa.
Chúng là tinh chất của vạn vật nếu ta biết được.
Thiên thần thì nằm trên đường tiến hóa đi lên, các ngài là những Vị tạo dựng nên hệ thống, làm việc theo thứ bậc và các ngành khác nhau. Có Đại Thiên Thần ngang hàng với Hành Tinh Thượng đế, và Thiên Thần quản trị năm cõi tiến hóa của con người ngang hàng với vị Chân sư có bẩy lần chứng đạo (initiation còn gọi là điểm đạo). Những Thiên Thần khác theo ngành của họ có mức phát triển tương đương như vị Chân sư có năm lần chứng đạo, và các ngài làm việc có ý thức và sẵn lòng với các Chân sư thuộc Thiên đoàn. Ta có thể thấy các ngài ở những mức thấp hơn cho tới những thiên thần nhỏ bé tạo hình làm việc trong nhóm không ý thức, tạo những hình thể cần thiết cho sự sống đang tiến hóa.
Cuộc tiến hóa đi theo hình chữ V, chặng đầu đi xuống nhập vào vật chất và chặng sau đi lên vào cõi tinh thần, với lực của đường tiến hóa đi lên và lực của đường tiến hóa đi xuống là hai điều khác biệt. Với cái sau đó là những quyền lực mù quáng của tinh linh làm việc, có tính phá hoại, hung bạo. Trên đường đi xuống tinh linh là sinh vật làm đa số công việc, hành động một cách mù quáng do thiên thần tạo hình cai quản. Với cái trước công việc có tính xây dựng, kết hợp, tăng trưởng từ từ, có sự hòa hợp sinh ra từ bất hòa, mỹ lệ thành hình từ sự hỗn loạn. Những loài dưới thuộc thế giới thiên thần hoạt động theo sự hướng dẫn của các Đại Thiên thần tạo hình, và tất cả tiến lên trên theo mỹ lệ có trật tự từ cõi này sang cõi kia, hệ trước sang hệ sau, vũ trụ này sang vũ trụ nọ. Vì vậy khi học hỏi về chuyện huyền bí ta cần nhớ hai điều:
- Con người làm chủ các lực của tinh linh, và
- Con người hợp tác với thiên thần
Với loài trước ta chế ngự, với loài sau ta nỗ lực làm việc chung với các ngài. Ta làm chủ bằng hành động tức làm một số chuyện thí dụ như chuẩn bị các nghi lễ để qua đó các lực có thể tác động. Nó là việc lập lại ở mức độ vô cùng nhỏ hơn điều mà Thượng đế ngôi ba làm khi sáng tạo thế giới. Hành động sẽ mang lại kết quả, về sau sẽ có tỏ lộ cho ta biết những nghi lễ, nghi thức mà nhờ vậy ta có thể tiếp xúc với các tinh linh khác nhau và làm chủ chúng. Cung bẩy hay cung Nghi Lễ nay tác động trở lại, làm cho sự việc dễ dàng hơn về mặt này.
Tinh linh lửa và tinh linh nước cùng những tinh linh thấp hơn đều có thể bị các nghi thức điều khiển. Có ba loại nghi thức.
- Nghi thức bảo vệ, liên quan đến sự bảo vệ của riêng ta
- Nghi thức hiệu triệu, kêu gọi tinh linh
- Nghi thức làm chủ và điều khiển tinh linh khi chúng được kêu tới.
Khi làm việc với thiên thần ta dùng minh triết hay tình thương, là đặc tính thứ hai của Thượng đế, tính kiến tạo. Do tình thương và lòng mong ước ta đến được với thiên thần, và bước đầu tiên của ta là tiếp xúc với họ, (ta ở trên đường đi lên giống như các ngài) bởi hai loài, nhân loại và thiên thần, phải làm việc chung với nhau trong tuơng lai để hướng dẫn các lực tinh linh và giúp đỡ nhân loại. Chuyện không an toàn cho con người, là kẻ dại khờ khi mó máy vào những lực trên đường đi xuống, bao lâu mà họ chưa kết nối với thiên thần do có tánh tình thanh khiết và tâm hồn tốt lành.
Qua nghi lễ và nghi thức ta có thể có thể cảm và tới được với thiên thần, nhưng không theo cùng cách thức hay cùng lý do như với tinh linh. Thiên thần dự vào nghi lễ một cách tự do mà không phải là được kêu gọi tới. Các ngài đến như ta đến để làm năng lực tuôn xuống. Khi làn rung động của ta đủ tinh khiết, nghi lễ đóng vai trò là nơi gặp gỡ chung cho hai loài.
Nay cần có lời khuyến cáo về nguy hiểm có thể có khi ta triệu thỉnh và tiếp xúc với hai nhóm tác nhân tạo hình này, và nhất là việc tiếp xúc với các lực tinh linh. Tại sao đặc biệt là loài sau ? Vì những lực này luôn luôn tìm được đáp ứng trong một trong ba thể thấp của người, do việc ba thể (nhìn như là từng thể riêng biệt) gồm những sinh vật trên đường đi xuống tạo nên. Vì thế con người vô tình phơi bầy mình khi có tiếp xúc trực tiếp với bất cứ tinh linh nào, gặp rủi ro và có thể cay đắng hối tiếc việc ấy. Nhưng khi con người tiến gần đến quả vị đạo sư và làm chủ được chính mình, sau đó họ được tin tưởng đủ để cho phép làm chủ những sinh vật khác thì họ có được một số quyền năng. Những quyền năng này - dựa trên luật - khiến họ có trong tay uy lực đối với những sự sống nhỏ bé hơn, và sẽ dạy họ rằng việc hợp tác với thiên thần là điều vô cùng thiết yếu cho mục tiêu của sự tiến hóa về sau.
Mantram về Quyền Lực
Các mantram về quyền lực có nhiều loại, chính yếu là bốn loại sau.
a. Quan trọng nhất là các mantram có tính bảo vệ
b. Các chú ngữ kêu gọi tinh linh và thiên thần loại thấp, và đem chúng vào vòng từ lực của người vời chúng đến.
c. Các chú ngữ áp đặt ý chí của người gọi lên tinh linh và thiên thần
d. Các chú ngữ làm tiêu tan ảnh hưởng của bùa chú, và đặt tinh linh và thiên thần ở ngoài vòng từ lực của người gọi.
Bốn nhóm mantram này đặc biệt hướng tới việc kêu gọi và tiếp xúc với sinh vật hạng thấp và ít khi được dùng, ngoại trừ trong những trường hợp hiếm do các vị đạo đồ và đạo sư, vì nói chung các Vị này làm việc với những đại thiên thần và các vị tạo hình, dùng họ như là phương tiện. Nhóm Hắc Đạo làm việc với những lực trên đường đi xuống và uốn những sinh vật thấp bé hơn theo ý chí của họ.
Phương cách đúng thực mà Chánh Đạo theo là làm chủ các nhóm trên đường đi xuống này và thiên thần cấp dưới nhờ vào các thiên thần cấp cao, tức thiên thần tạo hình dưới quyền cácĐại Thiên Thần
Nay ta sang đến một nhóm mantram khác có liên hệ với chính những thiên thần.
a. Chú ngữ theo nhịp, giúp ai dùng chúng tiếp xúc với nhóm thiên thần mà họ muốn gặp. Đây là các mantram của những cung, vì chúng triệu thỉnh thiên thần thuộc một cung nào đó. Những mantram này thay đổi nếu ai muốn vời thiên thần thuộc cùng một cung với loài sau.
Có câu hỏi là sao người ta không dùng chúng để che chở trước, như trong trường hợp kêu gọi tinh linh. Chính yếu là vì lý do sau. Chú ngữ kêu gọi tinh linh thì dễ tìm và sử dụng hơn mantram dùng để triệu thỉnh thiên thần. Lịch sử có đầy những thí dụ người ta làm việc ấy (như thuật rải đậu thành binh, hô phong hoán vũ v.v. trong chuyện Phong Thần của Trung Hoa và chuyện cổ Việt Nam), và ngay cả hiện nay trên khắp thế giới có những người nắm giữ bí mật làm họ tiếp xúc được với tinh linh loại này hay kia. Vào thời châu Atlantis, ai cũng biết cách làm vậy, còn bây giờ người bán khai và ở những nước văn minh vẫn có nhiều người biết thuật này và thực hành nó.
Thứ hai, người trung bình, ngay cả khi biết mantram, có thể không vời được thiên thần vì không phải chỉ cất giọng xướng âm là đủ; và đây là một trong những bí mật được cho biết khi đạt chứng đạo. Khi ai là bậc đạo đồ hay vị đạo sưhọ không cần tới những nghi thức bảo vệ, vì luật của huyền bí học nói rằng chỉ những ai có đời sống trong sạch và động cơ không ích kỷ mới tiếp xúc được với hàng ngũ thiên thần; trong khi đó chuyện liên quan đến tinh linh diễn ra theo cách khác.
b. Chú ngữ làm người ta giao tiếp với thiên thần khi đã triệu thỉnh được các ngài. Thiên thần không hiểu ngôn ngữ của người như ta hiểu, tuy nhiên có những cách thức riêng biệt sinh ra động lực, lực, làn rung động đưa tới kết quả mà không cần lời nói. Những cách thức này là đường dẫn tới việc hai bên hiểu nhau.
c. Chú ngữ tác động lên nhóm và mantram khác chi phối các thiên thần riêng biệt. Ta cần nói thêm luật ấn định là thiên thần chịu ảnh hưởng theo nhóm mà không phải từng cá nhân riêng rẽ, trừ phi nào ta tiếp xúc với thiên thần rất cao cấp.
d. Chú ngữ trực tiếp vời một trong những đại thiên thần một cảnh hay Đấng chủ trì một cõi. Rất ít người biết mantram ấy và chỉ những ai đã có chứng đạo mới dùng nó.
Chú ngữ cho kết quả bằng cách dùng lực và những luồng từ lực, từ mantram kêu gọi tinh linh cho đến các mantram là những Thánh Ngữ được xướng lên theo nhịp dùng cho Đấng chủ trì một Cung, Đại Thiên Thần chủ trì một cõi hay chính vì Thái Dương Thượng đế. Việc xướng lên những Thánh Ngữ này, đi qua nhiều cấp khác nhau tới một điểm đặc biệt, đưa người ta vào dòng lực. Đó là việc tìm đường có ít kháng lực nhất để tới một đích, để liên lạc với thiên thần hay để làm chủ sinh vật còn thấp nào đó, và để tiếp xúc cùng hợp tác với các nhóm thiên thần.
Như ta có thể mường tượng ra, việc kêu gọi thiên thần hay tinh linh chỉ có thể làm được an toàn bởi ai có quyền năng dùng chúng một cách khôn ngoan khi vời họ. Thế nên những mantram ta ghi ở trên chỉ được giao vào tay ai thuộc về lực xây dựng thế giới, hay ai có thể làm chủ những yếu tố phá hoại để xây dựng, uốn chúng vào đường lối những lực gây tan rã, với các lực này là một phần trong kế hoạch xây dựng lớn lao. Ai không được vậy mà có thể tiếp xúc với thiên thần và do việc dùng mantram, vời các ngài đến với mình, họ sẽ thấy là lực mà thiên thần mang đến sẽ đổ ập xuống họ như là lực tàn phá, và hệ quả nghiêm trọng sẽ tới cho thể này hay thể kia trong ba thể của mình.
Vì vậy, hãy suy nghĩ kỹ về việc này, nhớ rằng các nguy hiểm ấy là do sự kích thích quá độ hay bất ngờ tan vỡ, bị nước hay lửa làm tan rã. Nếu họ tụ tập tinh linh quanh mình thì sự nguy hiểm sẽ khác, hay nói đúng hơn thì hệ quả sẽ biểu lộ theo hướng ngược lại, như mất sinh lực vì bị rút mất đi, lực bị rút khỏi từ thể này hay thể kia của họ, có việc chất chứa thêm chất liệu vào một trong các thể do tác động của tinh linh cõi trần hay cõi tình cảm và chết vì đất, nước hay lửa hiểu theo nghĩa bí truyền.
Ta đề cập tới những rủi ro ở đây cho ai kêu gọi đem vào trong bán kính bầu từ lực của mình một trong hai nhóm trên mà không có hiểu biết cần thiết để bảo vệ, làm chủ và sử dụng. Tại sao lại phải đề cập tới việc ấy ? Bởi có những chú ngữ như vậy hiện hữu, và sẽ được dùng và biết tới khi con người sẵn sàng, và khi công việc đòi hỏi. Ngày kia những chú ngữ loại thấp sẽ dần dần được đưa ra cho những ai đã tự chuẩn bị mình, ai làm việc không ích kỷ để trợ giúp đồng loại. Như đã nói trước kia, các mantram này đã được biết tới trong thời châu Atlantis. Chúng dẫn tới kết quả kinh khiếp hồi đó vì được dùng bởi những ai có đời sống không trong sạch cho chuyện ích kỷ và mục tiêu xấu xa. Họ kêu gọi để khiến kẻ nghịch với họ bị trả thù; họ vời các thiên thần hạng thấp và dùng quyền lực của những vị này để thực hiện tham vọng của mình; họ không tìm cách hợp tác với luật mà dùng luật ấy cho việc ở cõi trần theo ham muốn của mình.
Thiên đoàn cai quản thấy rằng nguy hiểm quá to tát vì cuộc tiến hóa của thiên thần và con người bị đe dọa, nên các Ngài dần dần rút khỏi tâm thức con người sự hiểu biết về cách thức và chú ngữ, cho tới khi lý trí được phát triển phần nào, và cái trí tinh thần tỏ dấu hiệu bắt đầu thức tỉnh. Vì lý do ấy, hai đường tiến hóa lớn và đuờng thứ ba tiềm ẩn (gồm những sinh vật trên đường đi xuống) bị tách rời và ngăn cách với nhau. Tạm thời làn rung động của trọn khối được làm chậm lại, vì chủ đích ban đầu là sự phát triển song song giữa các đuờng này. Bí ẩn của việc có vẻ như kế hoạch của Thượng đế gặp trở ngại nằm trong việc phần rơi rớt của điều Ác tích cực trong vũ trụ đã tìm cách thể hiện, đây là phần còn lại của hệ thái dương đầu (ta là hệ thứ hai). Điều Ác chỉ là phần tồn đọng của karma chưa trang trải xong và có nguồn gốc là sự vô minh.
Sự phân chia cuộc tiến hóa làm ba phần gồm các sinh linh trên đường đi xuống và đi lên tiếp tục cho đến ngày nay. Với cung bẩy là cung Nghi Lễ Huyền Thuật đang mạnh dần, hai nhóm tiến hóa trên đường đi lên này được cho phép tiến lại gần với nhau một chút, tuy nhóm trên đường đi xuống (là tinh linh) chưa được phép làm vậy. Trong năm trăm năm tới, hai đường tiến hóa thiên thần và con người sẽ phần nào thành biết tới nhau hơn, và do vậy sẽ có thể hợp tác với nhau tự do hơn. Cùng với tâm thức phát triển dần này là việc đi tìm những cách liên lạc giữa hai loài. Khi nhu cầu cho mục tiêu xây dựng được thấy là chân thành, khi ấy dưới sự hướng dẫn cẩn thận của các Chân sư, một số mantram cổ xưa sẽ được cho phép lan ra. Tác động của chúng, sự tương tác và phản ứng sẽ được xem xét chặt chẽ và theo dõi. Có hy vọng là lợi ích cho hai nhóm sẽ có tính hỗ tương. Đường tiến hóa của người sẽ cho thiên thần sức mạnh, và thiên thần cho con người niềm vui. Nhân loại nên cho thiên thần biết quan điểm ở cõi trần, và tới phiên loài sau tuôn tràn từ lực chữa lành lên con người. Thiên Thần là kẻ gìn giữ prana, từ lực và sinh lực, cũng như con người là kẻ giữ gìn nguyên lý thứ năm hay manas trí năng. Một số manh mối được nêu ra trong đoạn này và ta không thể nói thêm được.
Chú Ngữ về Lửa
Có lẽ chuyện có ích phần nào nếu ta nói sơ qua một chút về phần việc của lửa trong cuộc tiến hóa và về những ngành liên kết với lửa có trong thái duơng hệ của ta. Ta nhấn mạnh điều này vì khi tham thiền là ta đi vào lãnh vực của lửa, và do tầm quan trọng hàng đầu của nó. Có năm ngành mà lửa đóng một vai trò trong đó, kể ra như sau. Ta bắt đầu với lửa trong Đại Vũ trụ và sau đó nêu ra tương đuơng với nó trong Tiểu Vũ trụ.
1. Lửa thiết yếu làm linh hoạt thái dương hệ hữu hình. Thí dụ như lửa trong lòng địa cầu, và quả banh lửa nằm ở giữa là vầng thái dương.
2. Điều huyền bí mà HPB gọi là Fohat, vài biểu lộ của nó là điện, một số dạng ánh sáng và dòng từ lực gặp ở bất cứ đâu.
3. Lửa nơi cõi trí.
4. Tinh linh lửa mà yếu tính của chú ngữ chính là lửa.
5. Điểm sáng ta gọi là ‘điểm linh quang’ tiềm ẩn trong mỗi người, phân biệt Thái Dương Thượng đế này với tất cả những Thái Dương Thượng đế khác, và là tổng số tất cả những tính chất của Ngài.
Vài mantram khác có liên hệ với lửa được ghi thêm như sau. Có hai nhóm ta có thể tiếp xúc bằng cách dùng những âm có tính nhịp nhàng.
- Tinh linh lửa và nơi chứa đựng chúng sâu trong lòng địa ầu, trên mặt đất và trong không bên trên trái đất.
- Thiên thần cõi trí, chính yếu là thiên thần lửa.
Ta không có gì để nói hay không có gì được truyền ra về các mantram tác động lên tinh linh lửa. Về nhiều mặt chúng là tinh linh nguy hiểm nhất và hùng mạnh nhất làm việc trên địa cầu. Chúng đông hơn tất cả những tinh linh loại khác, và có mặt ở mõi cõi từ thấp nhất đến cao nhất. Tinh linh nước hay đất chỉ có ở một số chỗ hay bầu trong thái duơng hệ, còn tinh linh không khí là loài đông thứ nhì.
Các chú ngữ kêu gọi, làm chủ và giải tán chúng được dùng thường vào thời châu Atlantis. Nguy hiểm xẩy ra và lục địa bị đe dọa do việc dùng bất cẩn tinh linh, làm xáo trộn việc làm chính xác của thiên cơ, khiến các đấng Cao Cả phật lòng nên hiểu biết về những chú ngữ này bị thu lại. Mẫu chủng Atlantis bị hủy diệt do những thiên tai mà nước sinh ra, do lụt lội, bị nhấn chìm trong nước; và khi nhớ lại rằng nước là kẻ thù tự nhiên của lửa, và hai nhóm tinh linh đó vào giai đoạn ấy không có điểm chung nào, thì ta có thể hiểu ra một điểm lý thú trong thảm họa xẩy đến cho châu Atlantis.
Mantram cho thiên thần lửa cũng được giữ cẩn mật, không những vì sự nguy hiểm liên quan với nó, mà còn vì sự cản trở về thời gian gây ra khi các thiên thần này bị triệu thỉnh tùy ý và bị lực của mantram cầm giữ, khiến họ không làm được công việc mà họ cần làm. Trong số các mantram này là nhiều nhóm chú ngữ nhỏ hơn chuyên biệt cho những nhóm thiên thần và tinh linh khác nhau.
Việc dùng chú ngữ kêu gọi và điều khiển tinh linh được ghi trong chuyện xưa như là thuật hô phong hoán vũ. Hiện nay trong dân gian vẫn còn người biết các thuật này, thí dụ như đi trên lửa không phỏng, hay trị hỏa hoạn chỉ bằng cách đọc chú ngữ như được quan sát ở vùng quê.
Theo:
- Letters on Occult Meditations. A.A. Bailey