THUỐC VÀ CÁC THỂ THANH

Thuốc và các Thể Thanh

 

 

Bà Dora van Gelder Kunz có thông nhãn và thường hợp tác với các y sĩ để nghiên cứu phần vô hình của việc chữa bệnh. Phần dưới đây trích từ sách The Chakras and the Human Energy Field, ghi lại quan sát và cho giải thích những thay đổi trong luân xa và thể sinh lực khi ta có bệnh và việc chữa bệnh.
Nghiên cứu các luân xa thể sinh lực cho thấy là bất cứ khi nào có khác thường nghiêm trọng về mầu sắc, nhịp, hướng chuyển động, độ sáng, hình thể, độ dẻo dai của luân xa thì điều ấy muốn nói là có tình trạng nghiêm trọng có thể sinh ra bệnh, hoặc ở tuyến nội tiết liên hệ với luân xa đó, hoặc ở phần cơ thể mà luân xa ấy cung cấp năng lực. Tỉ lệ hòa hợp giữa ba thể sinh lực, tình cảm và trí là yếu tố quan trọng vì sự lỗi nhịp có thể sinh ra bệnh ở phần của cơ thể chịu ảnh hưởng của luân xa. Giả dụ ta cho vận tốc quay của luân xa thể sinh lực là 1, luân xa thể tình cảm gấp đôi như thế, và gấp đôi nữa ở thể trí, ta có tỉ lệ 1:2:4. Trên thực tế tỉ lệ này cao hơn nhưng ở đây tỉ lệ muốn nói các luân xa hoạt động hòa hợp với nhau.
Ngược lại, nếu mức của luân xa thể tình cảm cao hơn luân xa thể trí thí dụ 1:5:3, sự lỗi nhịp muốn nói có thể có bệnh liên quan đến luân xa thể tình cảm. Sao đi nữa, tỉ lệ cho thấy là tình cảm người này làm chủ phản ứng của xác thân mà không phải trí tuệ. Liên quan đến sự kiện này là cách chữa trị khuyến khích người bệnh tượng hình trong trí, như tưởng tượng rằng tế bào ung thư được thay thế bằng tế bào lành mạnh; nếu việc tượng hình sinh ra lợi ích thì đó có thể là do nó làm tăng lượng năng lực cõi trí, tạo quân bình và khiến tình cảm lắng dịu.
Quan sát bằng thông nhãn thấy là khi có lỗi nhịp giữa các luân xa, nhất là khi chiều quay bị đảo ngược từ chiều thuận của kim đồng hồ sang chiều nghịch lại thì có tiềm năng cao sinh bệnh. Nếu ngoài việc đổi chiều quay còn có thêm những thay đổi khác nói ở trên thì tiềm năng có bệnh mạnh thêm. Ngoài ra, nếu tâm của luân xa có hai chiều quay trái nghịch, lúc quay xuôi lúc quay thuận thì trong vòng vài năm người ấy nhiều phần có khối tăng trưởng trong cơ thể, có thể là ung thư ở phần cơ thể chịu ảnh hưởng của luân xa. Điều này xác nhận ý ta đọc từ những bài trước ấy là nói chung, hiện tượng cõi trần thường được quan sát thấy trước ở cõi cao rồi sau đó mới thể hiện ở thế giới hữu hình, từ chuyện lớn như chiến tranh ở mức độ to tát liên quan tới bao người cho đến chuyện nhỏ như thể tình cảm ở đây có tính cá nhân. Thay đổi trong luân xa có thể thấy và tiên đoán là có bệnh với việc diễn ra 20 năm sau như đã nói.
Trong trường hợp luân xa có khác thường nặng nề và tuyến nội tiết liên quan với luân xa bị cắt bỏ, người ta thấy là việc cắt bỏ này không điều chỉnh lại được sự khác thường của luân xa.Việc tình trạng khác thường vẫn còn đó không chừng giúp giải thích sự kiện bệnh tái lại ở bộ phận đã bị cắt bỏ một phần, thí dụ như tuyến giáp trạng.Từ đây ta có thể đi xa hơn và thử đặt câu hỏi về các nghiên cứu đang có về DNA. Ý chính là nếu khoa học tìm di truyền tử nào sinh bệnh và cắt bỏ chúng trong chuỗi DNA, hay làm chúng không linh hoạt thì có thể bệnh không phát ra, nhưng theo như quan sát vừa nói thì thực tế chưa chắc xẩy ra như vậy. Suy luận dẫn tới hai ý sau:
● Ta có thể thay đổi thứ tự di truyền tử trong chuỗi DNA, nhưng nếu bất thường trong luân xa còn đó thì chưa hẳn trừ được bệnh.
● Nguồn gốc của bệnh là ở cõi thanh và việc ngừa bệnh cần bắt đầu ở cõi này nếu muốn chữa tận gốc, và thay đổi cấu trúc của DNA chỉ là ngọn, không giải quyết được hết vấn đề.
Mặt khác, khi luân xa thể sinh lực  được quan sát thấy là hoạt động hoàn toàn bình thường, các tính chất như mầu sắc, vận tốc quay, độ sáng v.v. không có gì khác lạ thì người ta không thấy cơ thể có bệnh gì liên quan đến luân xa ấy; mặt khác bệnh di truyền nếu có thì lộ rõ trong luân xa.

Thuốc Giảm Đau.

Một người té, bị trật xương hông và phải dùng thuốc giảm đau Bufferin. Quan sát thì thấy dòng sinh lực giảm đi ở phần giữa đùi và càng giảm nữa ở giữa bắp chân, luồng sinh lực từ hông xuống phần sau mắt cá chân cứ vài phút lại bị gián đoạn khiến cho có ít năng lực nuôi dưỡng các bắp thịt.
Người này uống hai viên Bufferin và mười lăm phút sau, nhịp của sinh lực trong não thay đổi, làm ảnh hưởng tính chất luồng điện cũng như làm tăng độ sáng của năng lực. Có vẻ như Bufferin  làm năng lực trong não của thể sinh lực chậm lại, khiến các bắp thịt được thư thái, lượng máu chẩy trở thành bình thường hơn và nhịp điều hòa. Trong vòng nửa tiếng lại có thêm cải thiện, khi đó sinh lực tuôn chẩy tự do, xuôi rót không bị cản trở và hai chỗ gây bực bội một chút giờ thấy đỡ hơn.
Sau sáu tiếng, luồng sinh lực trong não có thay đổi. Kích động không đều và cà giựt phát ra từ hông đưa về não, và đáp lại thì não của thể sinh lực  có khuynh hướng gửi thêm năng lực tới chỗ bị đau. Về tác động của Bufferin trên bắp thịt bị đau, quan sát bằng thông nhãn thấy việcbớt đau trùng vào lúc sinh lực có thay đổi trong cách tuôn chẩy, và sáu tiếng sau bị đau nhức trở lại.
Ta có thể tự hỏi thuốc là vật cụ thể, hữu hình thì tác động lên sinh lực vô hình của luân xa theo cách nào.  Quan sát tiếp đây có thể cho câu đáp.

Thuốc trị tâm thần Thorazine.

Một bệnh nhân tâm thần uống thuốc Thorazine và có quan sát bằng thông nhãn hai mươi phút sau. Như mọi vật hữu hình trong thiên nhiên, Thorazine và do đó luôn cả Bufferin có phần ether tương ứng với phần vật chất, ở đây là hỗn hợp hóa chất. Có vẻ như phần Thorazine ether tác động lên não và làm luân xa giữa hai chân mày cùng luân xa cổ họng chậm lại.Hai việc này tới phiên chúng ảnh hưởng dây thần kinh thị giác, các nhân trong não và tuyến não thùy, làm cảm nhận thính giác và thị giác chậm lụt.Khi việc này diễn ra, người bệnh bắt đầu có cải thiện.
Sau nửa giờ, Thorazine tác động lên trọn cả ba thể, nhất là thể tình cảm.Các luân xa ở đầu hóa nhạt mầu muốn nói mức hoạt động của chúng chậm lại, luôn cả huyệt đan điền. Nói tóm tắt thì có vẻ như Thorazine làm giảm độ sáng của thể sinh lực và làm trì trệ, đóng lại thể tình cảm và thể trí. Điều này có thể giải thích cách thuốc giúp người có bệnh tâm thần bằng cách làm ngăn chặn và làm mờ mịt thể sinh lực và thể tình cảm, do đó làm giảm huyễn tưởng thị giác cùng thính giác. Ảnh hưởng của thuốc thấy như lan ra cả ba thể.

Tham Thiền và Sức Khỏe

Yếu tố quan trọng để việc tham thiền có hiệu quả là sự đều đặn, vì nếu không có nó thì khó có thể có ảnh hưởng dài hạn.Nếu thực hành hằng ngày, tham thiền có thể thay đổi thói quen gây căng thẳng và có thể cho thay đổi rõ rệt trong cá tính và sức khỏe của ta.Điều này phản ảnh nơi các luân xa, nhịp của chúng sẽ biến đổi và năng lực mới tuôn vào, giúp phá vỡ thói quen có tính phá hoại. Các luân xa sẽ bắt đầu hoạt động chung với nhau hòa hợp, và tới phiên điều này mang thêm năng lực vào trọn hệ thống. Ngay cả khi ta mệt mỏi lúc ngồi xuống hành thiền, sau đó chẳng những ta cảm thấy thư thái mà luôn cả nhiều sinh lực hơn.
Tham thiền cho ảnh hưởng chữa lành, có thể giúp ta thắng được cơn bệnh và sự việc diễn ra như sau. Cảm tưởng ta thuộc về một điều rộng lớn hơn giúp ta thoát khỏi ảo tưởng thông thường rằng ta là trung tâm điểm của mọi vật, và không còn quá chú trọng vào chính mình.Cảm giác sự hòa hợp thân tâm trọn vẹn cũng giảm bớt khuynh hướng tập trung tư tưởng vào bệnh ta có; khuynh hướng này chỉ làm tăng cường diễn tiến của bệnh.Thay vì đồng hóa mình với bệnh, ta trở thành ý thức trí não của mình và khả năng thay đổi nó.
Thí nghiệm thấy là khi căng thẳng, trọn con người được vận dụng để ứng phó với hiểm nguy có thật hay chỉ tưởng tượng. Nếu nghĩ là ta phải trốn chạy hay phải chống trả để được sống còn, nhịp tim và nhịp thở hóa nhanh hơn, cơ thể tiết adrenaline nhiều hơn vào máu và ta có thể đổ mồ hôi. Nó cho thấy không có ranh giới giữa xác thân và tư tưởng lẫn cảm xúc; điều tưởng tượng có thể được xem là thật một cách đáng sợ cho ta. Cũng y vậy, tưởng tượng hay tượng hình  trong trí chuyện vui vẻ, bình an có thể cho ảnh hưởng an tĩnh. Việc tượng hình có thể rất hữu ích vì nó giúp củng cố khả năng tập trung tư tưởng.Thí dụ, nếu lo lắng ta nên trụ vào điều chi là biểu tượng của sự hòa bình đối với ta, và tượng hình nó không những trong lúc tham thiền mà luôn cả trong ngày bất cứ khi nào trong tâm thấy lo lắng.Để cho biểu tượng có hiệu quả, nó phải có ý nghĩa đối với ta; thế nên một người cần chọn hình nào có liên kết với kinh nghiệm riêng của mình.
Một trong những biểu tượng hữu hiệu nhất là hình ảnh cái cây đâm rễ sâu trong đất, cùng lúc vươn ra mặt trời để có sức sống và không ngừng bị gió cùng thời tiết vùi dập.Như vậy, cái cây tượng trưng cho việc ta đương đầu với những khó khăn hằng ngày, mà còn có ý nghĩa tinh thần là ta sống còn sau tất cả những giông bão xẩy đến cho ta.
Khi tượng hình  trong trí là ta đang sử dụng khả năng của luân xa giữa hai chân mày mà người có thông nhãn thấy được rõ ràng, vì chẳng những nó khiến luân xa này quay mau hơn mà còn ảnh hưởng đến luân xa trên đỉnh đầu. Do đó tượng hình chuyện tích cực giúp thăng tiến việc chữa lành, vì nó tăng hoạt trọn hệ thống, tạo ảnh hưởng tốt lành cho sức khỏe của ta.
Quan sát nơi một người chủ ý tham thiền để giúp chữa bệnh cho mình, ta thấy việc hành thiền sinh ra khác biệt lớn lao cho sức khỏe của họ và hệ thống các luân xa phản ảnh thay đổi đó. Một số luân xa đặc biệt chịu ảnh hưởng, như luân xa trên đỉnh đầu và giữa chân mày bắt đầu làm việc hòa hợp với nhau và với luân xa tim, xong chúng ảnh hưởng hoạt động của huyệt đan điền solar plexus. Khi người này chủ tâm hay đổi cách suy nghĩ của mình, họ chuyển trọng tâm chú ý từ huyệt đan điền lên huyệt tim, và sự việc nay biến đổi trọn hệ thống năng lực.
Khi luân xa tim và luân xa đỉnh đầu làm việc chung với nhau hòa hợp, việc này tác động lên tuyến thymus và tăng cường hệ miễn nhiễm, cùng lúc đó họ tìm cách giúp đỡ người khác bằng việc chữa trị và do vậy đem thêm năng lực mới vào huyệt tim; kết quả là có thay đổi rõ rệt về cả nhịp và sự chuyển động nơi ba luân xa cao.
Tất cả những quan sát bằng thông nhãn đưa tới nhận xét là sức khỏe và việc chữa bệnh tùy thuộc vào sự tuôn chẩy tự nhiên, hòa nhịp, không bị cản ngăn của sinh lực. Đây là năng lực prana có khắp nơi, luôn luôn hiện hữu nhưng dòng lực có thể bị ngăn trở hay giảm thiểu trong một số điều kiện. Cũng y vậy, dòng lực có thể được tăng bội và ấy là nguyên lý nằm sau điều ta gọi là trị bệnh bằng nhân điện, phép lạ, tâm linh hay bất cứ tên gì khác. Vài yếu tố của sự tăng bội này đã được biết tới từ lâu, và một số khác thì vẫn còn bí ẩn.
Thí dụ bà Dora van Kunz đến thăm thành phố Varanasi (Benares) của Ấn Độ, nơi được xem là thánh địa thiêng liêng nhất của Ấn, và có hàng ngàn người tới đó mỗi ngày tắm trong sông Hằng để được nước sông thiêng thanh tẩy, người ta tin là nước sông có đặc tính chữa lành. Khi nhìn bằng mắt trần và theo quan điểm thông thường về vệ sinh của tây phương, thành phố rất dơ bẩn và sông hẳn là bị ô nhiễm trầm trọng do con số người bệnh, sắp chết và đã chết trầm mình trong nước. Tuy nhiên khi nhìn ở cõi ether thì chuyện khác hẳn đi.
Bình thường, mỗi con sông hay khối nước di động có phần ether tương ứng rất mỏng nhô lên khỏi mặt nước chừng bẩy hay tám cm. Đa số chặng của sông Hằng không nằm ngoài lệ này, nhưng ở khúc sông tại Varanasi nơi người hành hương xuống tắm sông, bà quan sát bằng thông nhãn và thấy khúc sông dài khoảng gần một cây số ở hai bên có hiện tượng lạ, còn phần trước và sau khúc sông này không có. Ấy là dọc theo hai bên khúc sông có dòng đặc biệt năng lực ether thấm sâu bên dưới mặt nước gần ba cm. Thêm vào đó, phía trên khúc sông này khoảng 1.6 cây số có một điểm tập trung năng lực khác gần như có thể được gọi là xoáy lực tinh thần có tính chữa lành. Các xoáy lực tương tự cũng có ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Chuyện kỳ lạ mà có thật là nhiều việc lành bệnh xẩy ra ở khúc sông này, bà Dora giải thích là do tình trạng đặc biệt vừa nói, khi bệnh nhân tắm trong sông ở chỗ có xoáy lực, họ nhận được thêm năng lực ether tới mức đủ làm cho lành bệnh mau hơn so với bình thường.    

Giải Phẫu Cắt Bỏ

Mỗi phần của cơ thể hữu hình đều có phần tương ứng bằng chất ether vô hình, vậy khi vì lý do nào đó một phần của cơ thể bị cắt bỏ thì chuyện gì xẩy ra, hay khi ghép bộ phận  thì sao ? Người được ghép bộ phận bắt buộc phải dùng thuốc cả đời để ngăn việc cơ thể mình tống xuất cơ quan được ghép mà cơ thể xem là vật lạ đối với nó. Tìm hiểu về mặt này thì nơi một người được ghép thận, quan sát thấy phần ether của trái thận mới không hợp với tính chất của vùng ether của người nhận, hai phần không hòa với nhau.
Bà Dora mô tả là phần ether của quả thận được ghép xem ra thô nhám hơn phần ether của toàn thân người nhận, và nói ‘Thấy hai loại ether với tính chất khác nhau trong cùng một thân thể là điều lạ, năng lực trong quả thận rất lạ lùng, như thể nó trồi sụt.’Mầu của thận đậm hơn so với trọn phần còn lại của cơ thể, và bởi chúng không hòa hợp, quả thận không hoạt động tốt đẹp. Khi khác, bà có nhận xét rất đáng chú ý, bà khám phá là cho dù một tuyến nội tiết có bệnh và rồi có giải phẫu cắt bỏ, quan sát thấy là luân xa liên kết với tuyến ấy vẫn tỏ ra bất thường. Sự kiện có hai ý nghĩa:
● Có thể đây là chứng minh cho điều ta nói ở trên là chỉ khi nào luân xa hoạt động bình thường như trước thì triệu chứng của bệnh mới không tái phát.
● Nó cũng có thể là manh mối cho lý do vì sao bệnh mà do đó tuyến bị cắt bỏ, có thể trở lại.
Khi phải cưa tay hay chân thì sao ? Sách vở ghi nhiều trường hợp là người ta vẫn còn cảm giác ở phần cơ thể đã mất như đau, ngứa muốn gãi v.v.Tình trạng được thấy là thay đổi tùy từng người, tùy theo việc mất mát phần cơ thể xẩy ra mới vài tháng hay đã lâu rồi, và tùy vào việc tâm thức còn gắn bó với phần này nhiều hay ít.
● Hai tháng sau khi cắt bỏ do tai nạn, phần ether của chân đã mất của người A vẫn còn thấy rõ. Ta không biết điều này có liên hệ gì với việc là nạn nhân vẫn tiếp tục nghĩ về chân của mình, và than phiền là cảm thấy đau ở ngón chân. Năng lực ether vẫn thấy tuôn chẩy trong phần ether tương ứng với chân đã mất.
● Nơi người B, chín tháng sau giải phẫu do bệnh tiểu đường thì phần ether của chân bị cắt bỏ của họ vẫn còn tuy đường nét mờ nhạt. Có vẻ như càng ngày càng có ít năng lực chẩy qua phần ether đó, và không có hình tư tưởng gắn liền với phần chân ether. Người này cũng không còn nhớ gì tới chân, không còn ràng buộc vào nó.
Nói về sự khác biệt giữa hai trường hợp , bà Dora cho rằng vì tai nạn xẩy tới đột ngột cho người A, họ không có chuẩn bị tâm lý về việc mất chân nên cảm giác về chân còn mạnh dù chân đã mất. Nơi người B có bệnh tiểu đường đã lâu, có thể họ đã quen dần với thực tế là sẽ có giải phẫu nên có thì giờ bớt quyến luyến chân, và dường như đã chuyển mọi cảm nghĩ về chân đã mất vào chân còn lại, hình tư tưởng về chân đã mất do vậy yếu đi.

Gây Mê

Khi có gây mê để giải phẫu, quan sát thấy ai mê man thì thể sinh lực bị dồn ép lại hay đẩy lên trên làm nó phất phơ qua lại ở đầu, nhưng chưa bị đẩy ra khỏi cơ thể hoàn toàn. Ai hồi tỉnh phần nào thì thể sinh lực bắt đầu tuôn vào cơ thể và tràn xuống phần thân; ai thức tỉnh nhiều hơn thì phần ether dần dần đi xuống chân. Người bệnh thường cho biết bàn chân là phần chót trong cơ thể có cảm giác trở lại sau khi có gây mê.
Vì có khó khăn trong việc xin phép để được quan sát bệnh nhân nên có quyết định là thay vào đó, người ta sẽ nghiên cứu nơi loài vật tại một cơ sở thú y. Bà Dora thấy rằng khi dùng thuốc gây mê DMSO (Dimethysulfoxide), hóa chất khiến dòng năng lực ether chẩy trong kinh mạch giảm xuống rất mau, với loại thuốc khác thì sự việc diễn ra chậm hơn. Suy luận thì có thể tác dụng mau lẹ của DMSO không chừng làm giảm sưng nhanh chóng một nơi khi thuốc được dùng tại chỗ ấy. Nói chung các thuốc gây mê làm phần não ether và phần ether khắp thân thể mờ đi, nối kết với cơ thể hóa lỏng lẻo hơn, và khoảng năm phút sau mạng ether bị đẩy ra khỏi cơ thể và tụ ở đầu con thú.
Vào lúc bộ phận trong cơ thể của thú được cắt bỏ, người ta thấy là phần ether tương ứng cũng được cắt bỏ theo và dòng năng lực ether chẩy vào nơi ấy bị gián đoạn. Phần ether cắt rời trở thành mờ hơn với sinh lực rất thấp.Khi có cắt bỏ rồi, lượng thuốc mê giảm đi và mạng lưới ether của phần đã cắt bỏ nay thay đổi mau lẹ, đầu tiên là hóa mờ dần, rồi giảm xuống và biến mất trong vòng một tiếng sau.
Khi bụng của thú được may lại, mạng lưới ether ở nơi bộ phận đã cắt bỏ khởi sự tạo kinh mạch mới; ở mặt hữu hình thì có tương ứng là nơi mạch máu bị cắt bỏ nay các đường mạch mới bắt đầu thành hình, nhưng diễn tiến xẩy ra chậm hơn.
Cùng với việc tác dụng thuốc gây mê giảm bớt lần thì người ta thấy độ sáng của não ether chậm chạp phục hồi. Có nhận xét là cấu trúc mạng ether nơi thú - ở đây là chó, mèo - đơn giản hơn so với người, và nó giảm linh hoạt mau lẹ hơn mà cũng hồi phục mau hơn. Điều này giải thích sự kiện là thú hồi phục sau giải phẫu mau hơn người.Khoảng một giờ sau, mạng ether ở vùng có giải phẫu bắt đầu tái lập, kết nối chặt chẽ trở lại cho biết là tiến trình lành bệnh đang bắt đầu.