QUYỀN NĂNG TÂM LINH

Quyền Năng
Tâm Linh

 

Các nguy hại của quyền năng thấp vẫn cần được nhắc lại để khuyến cáo ai tìm hiểu về huyền bí học. Bài dưới đây được viết theo ý đó.

Hai loại quyền năng tâm linh
1. Quyền năng tâm linh thụ động là khả năng của người bán khai. Nó là một phần của khả năng tổng quát về cảm nhận cõi vật chất và cõi tâm linh. Ở mức này sự cảm nhận có tính mù mờ không rõ ràng, không phân biệt; với người bán khai đó là chuyện bình thường và tự nhiên. Cảm nhận tuôn vào trí họ không có kiểm soát và sắp đặt, và có thể đây là một lý do cho đáp ứng lạ thường và tinh tế với chuyện gì xẩy ra chung quanh họ ở mặt vô hình và hữu hình. Anh không bận tâm với chính mình vì cái tôi của anh còn non nớt không có gì mấy để chú tâm đến, nên anh không tự đóng lại.
Nhưng người trong thế giới văn minh ngày nay tạo cho mình một bầu kín ít nhiều bao quanh cái tôi của họ, và do vậy gạt ra phần lớn ý thức có thể có về thế giới chung quanh. Tự nhiên là anh chú tâm vào thế giới vật chất mà anh đang sống trong đó, và bất cứ điều gì anh cảm biết thì thuộc về cõi ấy. Cảm biết này tạo thành hàng rào có khuynh hướng ngăn giữa cõi vật chất và cõi siêu hình uyển chuyển. Như thế ta có khả năng tâm linh chủ động là khả năng kiểm soát có ý thức, có chọn lựa với mục tiêu rõ ràng.
Cách phân chia khác về hai loại quyền năng là những gì có khuynh hướng bước vào cõi vô hình mà con người không trực tiếp làm chủ thì có tính thụ động, còn khi hành  động có ý thức và chủ ý linh hoạt thì chủ động. Con người trung bình đang đứng ở mức giữa người bán khai có mức tiến hóa thấp kém, và bậc siêu nhân tiến hóa vượt bực. Từ điểm giữa này họ có thể rơi xuống mức cảm nhận thụ động do đau ốm, ma túy, rượu, chấn động hay quá mệt mỏi, cũng như do sự thôi miên vô thức như tiếng động lập đi lập lại của xe lửa trên đường rầy, hay tiếng trống của bộ lạc. Vài phép luyện tập Hatha Yoga cũng cho kết quả tương tự.
Ảnh hưởng của những việc đó là chúng khiến con người tạm thời đi thụt lui trên đường tiến hóa, trở lại mức tâm thức thấp hơn mức bình thường của họ. Nó có nghĩa chân ngã làm chủ ít hơn cho dù người đồng có thể thốt ra lời sáng suốt hơn lúc bình thường. Nếu quan tâm đến sức khỏe tâm thần thì ít nhất ta phải thấy rằng những phương pháp thụ động là không khôn ngoan, cho dù kết quả lý thú ra sao đi nữa, trong số đó có thể kể là việc đồng cốt mê man, cách tập Hatha Yoga, dùng ma túy hay phép thôi miên.
Việc có những quyền năng tâm linh thấp  có thể hàm ý là chân ngã thiếp ngủ khi nhìn theo cõi trần, và không thể sử dụng vận cụ của nó; thế nên các kinh nghiệm này chỉ là kết quả của huyệt đan điền solar plexus linh hoạt, sinh ra ý thức nơi cõi tình cảm. Loại cảm nhận tâm linh này là việc quay trở lại tình trạng thú và giai đoạn sơ khai của con người. Ấy là điều không nên làm và nguyhiểm.

2. Phương pháp chủ động nhắm tới việc gia tăng cảm nhận có ý thức, có sự tự chủ, nhắm tới mục tiêu tinh thần. Ai muốn phát triển cảm nhận tâm linh theo đường lành mạnh cần tìm hiểu sự sống và các nguyên lý chi phối nó. Anh cần cảm thấy là có một cơ Trời hay mục đích cuộc đời quan trọng hơn chỉ là tư lợi và sự phát triển riêng tư của anh. Vì thế anh không thỏa mãn với việc chỉ dùng khả năng tâm linh cho những  việc như đưa tin từ cõi vô hình về, mô tả người đã khuất và sinh hoạt của họ, hoặc ngay cả việc truyền lại các chỉ dạy đạo đức. Anh muốn biết chân lý sự vật và tự mình kinh nghiệm chúng.
Cách duy nhất để làm vậy là tự luyện tập lâu dài, gắng công khó nhọc và trải qua nhiều thất bại. Lại nữa, người có phát triểntinh thần chân thực thì không nhất thiết là phải có khả năng tâm linh như thông nhãn clairvoyance hay thông nhĩ clairaudience. Họ cũng không khoe khoang về khả năng của mình vì lòng kiêu hãnh tinh thần cho thấy không có sự phát triểntinh thần. Ngược lại khi ai có sự tăng trưởngtinh thần do việc chuyên cầnluyện tập, mức cảm biết sẽ tự nhiên mở lớn, và có khả năng tâm linh theo đúng nghĩa, nhưng họ chú mục vào giá trị tinh thần hơn là thông nhãn cho dù nó có ích.
Quyền năng tâm linh chủ động do đó phải  được xem là thứ yếu, chuyện ngoài lề so với việc sâu xa hơn là đi tìm chân lý. Động cơ chính yếu của ta cần là chân lý mà không phải  là việc phát triểnquyền năng siêu hình.
Chìa khóa cho ai học hỏi huyền bí học muốn đạt tới sự giải thoát, không nằm trong các phép tập luyện về hơi thở hay bất cứ việc gì liên quan đến các huyệt đạo trong người, mà nằm trong chủ ý mạnh mẽ ở nội tâm, theo cách sống có nhịp điệu, và việc cẩn thận sắp xếp cuộc đời. Khi làm vậy, sự hòa hợp những thể thanh với thể xác về một mặt, và mặt kia với chân ngã cuối cùng sẽ tới, do sự tự động điều chỉnh sau đó của năng lực prana và sinh lực.

Tinh Luyện
Có nhiều loại tinh luyện liên quan đến các thể mà ta tiếp xúc trong ba cõi. Chúng có thể được phân biệt như sau:
●Thanh khiết bên ngoài:            Thể xác
●Thanh khiếtbên trong (từ lực):            Thể sinh lực    
●Thanh khiết tâm linh (tình cảm):         Thể tình cảm  
●Thanh khiết trí tuệ (hạ trí):      Thể trí             
Sự thanh khiết nói ở đây liên quan đến chất liệu cấu tạo các thể. Ở phương tây, luật về sự thanh tẩy bên ngoài, về vệ sinh được biết kỹ và thực hành rộng rãi. Ở đông phương luật về từ lực thanh khiết được biết rõ hơn, thế nên khi hai hệ thống được phối hợp và cùng được nhìn nhận, thể xác sau cùng sẽ có mức thanh nhẹ cao.
Trong giai đoạn hiện thời, Thiên đoàn (Hierachy)  chú tâm phần lớn vào sự thanh khiết tâm linh, và đó là lý do cho khuynh hướngphát triển rộng rãi chỉ dạy về huyền bí học. Nó khác với quan niệm thông thường về phát triển tâm linh, không nhấn mạnh vào các quyền năng tâm linh thấp, mà tìm cách huấn luyện người chí nguyện về những  luật của đời sống tinh thần. Điều này dẫn tới ý thức về bản chất củachân ngã, và việc làm chủ bản chất tâm linh thấp. Giai đoạn có thúc đẩy theo đường lối này là từ năm 1926 đến 2026 và nó đi kèm với việc giảng dạy các luật về tư tưởng, do vậy mà chỉ dạy về Raja Yoga cần được phổ biến. Chúng cho biết các luật về sự kiểm soát cái trí, mà cũng bàn nhiều về bản chất của những  quyền năng tâm linh thấp.

Mức Tâm Linh
Khi con người cóphát triểntinh thần ở mứcthấp, họ ý thức và đáp ứng với tâm linh của hình thể vật chất, và mặt vật chất chế ngự, vì mỗi hạt nguyên tử có phần tâm linh của nó. Điều này liên quan tới tất cả những gì dưới người.
Trong việc học hỏi, phát triển tinh thần, tới một lúc nào đó con người có mức cảm nhận tinh thần gia tăng. Đây vừa là dấu hiệu của sự tăng trưởng vừa là một thử thách. Anh bị cám dỗ buông lơi nỗ lực phụng sự, mà thay vào đó dùng quyền năng tâm linh để có lợi cho mình. Sự thật là tuy người chí nguyện phải tăng trưởng mọi mặt về bản chất của họ, nhưng bao lâu anh chưa sống như chân ngã một cách ý thức và với óc thông minh, anh cần để yên những quyền năng thấp. Chỉ những  đệ tử cao cấp và bậc đạo đồ mới có thể dùng chúng an toàn. Chúng là vũ khí và là phương tiện để dùng trong ba cõi thấp cho những  ai vẫn còn bị luật Tái Sinh ràng buộc vào những  cõi này. Với ai đã giải thoát họ không còn cần dùng các  quyền năng ấy, các ngài có thể dùng trực giác là quan năng cho hiểu biết không sai chạy.
Nguy hiểm của quyền năng thấp còn nằm ở bản tính thiếu quân bình của người sơ cơ.Có người cho phản ứng nặng về tình cảm, người khác có tính duy vật, tính chất mỗi người sinh ra ảnh hưởng trực tiếp lên huyệt đan điền khiến nó bị thiếu quân bình mạnh mẽ. Hiểu biết về cõi tình cảm có thể tràn vào não bộ khiến có khuynh hướng về quyền năng  thấp, và họ có thể bị chìm đắm trong đó hoàn toàn nếu mê say thí nghiệm những quyền năng này. Sự lạc bước có thể chỉ diễn ra tạm thời, nhưng thì giờ ít oi so với bao việc phải làm khiến cho đây là chuyện đáng tiếc, nếu họ mất giờ vào việc thí nghiệm vô ích rồi phải trở ngược về đường đã chọn của mình.
Để đối phó thì việc chấp nhận thuyết Bất Tri Agnosticism, mà không phải là óc Vô thần, có giá trị thực sự cho người sơ cơ, và giữ cho họ tránh được cạm bẫy của thế giới huyễn mộng và các quyền năng thấp. Những quyền năng cao có thể kể là trực giác, cảm nhận tinh thần, viễn cảm (telepathy) dùng trí tuệ (mà không phải  dùng huyệt đan điền). Lời khuyên khi ai nhận biết mình có quyền năng thấp là hãy quên chúng, vì chúng không quan trọng ở giai đoạn ban đầu. Ta phải có nhậy cảm với rung động tinh thần của chân ngã, và làm ngơ với sự nhậy cảm sẵn có về quyền năng thấp. Có rất nhiều ý làm ta bị phân tâm, nhiều ấn tượng đến với ta từ thế giới vật chất và cõi tình cảm làm cho làn rung động và âm thanh từ cõi tinh thần bị lạc mất không được ghi nhận, lưu tâm.Điều trước phải được nhìn nhận như là chuyện huyễn hoặc cõi tình cảm, mộng mị và hình tư tưởng mà không phải là con người thật.
Việc cần nói là cõi tình cảm có thể là nơi có nhiều nguy hại tâm linh, mà cùng lúc nó có thể cho biết có thức tỉnh nhậy cảm mới với những khía cạnh khác của đời sống thiêng liêng, thiêng liêng như những mục tiêu khác của người chí nguyện, khi đặt đúng chỗ và sử dụng đúng đắn.  Đời sống tâm linh là một phần rõ ràng của việc thể hiện tinh thần  của họ. Chỉ khi nó không được kiểm soát, bị nhấn mạnh quá độ và coi trọng quá mức thì mới trở nên đáng lo. Nó thành chướng ngại khi bị dùng sai lầm, hay được xem như là cái thay thế cho những cách biểu lộ thiêng liêng khác. Khi ấy nó sinh ra chuyện không hay và làm con người đắm chìm vào thế giới huyễn hoặc, mộng ảo. Quyền năng tâm linh là trợ lực có giá trị trong việc phụng sự khi được phát triển và dùng đúng cách; chúng có thể được khai mở an toàn nơi ai trụ tâm thức vào cõi trí và hướng đúng đắn vào việc phụng sự.
Ta được khuyến cáo là không nên muốn có kinh nghiệm về những quyền năng thấp. Lời khuyến cáo này rất cần mà khónói cho người chí nguyện  nghe, bởi họ khẳng định rằng khả năng thông nhãn và thông nhĩ của họ là chỉ dấu cho sự khai mở tinh thần cao, là tiến bộ. Trí họ đóng lại với mọi lời cảnh cáo, và họ làm việc với lòng tự mãn.Họ quên rằng người bán khai và thú vật cũng có quyền năng tâm linh thấp, và cảm biết nhiều điều mà người phát triển trí năng cao hơn không ghi nhận. Kẻ trước có sinh hoạt chính yếu ở cõi tình cảm, những diễn giải về hiện tượng và thái độ, chú tâm của họ là ở cõi đó hay theo quan điểm tình cảm. Vì thế ta phải nhấn mạnh lời cảnh cáo, và khiến ai như thế thức tỉnh đối với chuyện không hay về đời sống của họ ở cõi này.
Ta cũng nên biết rằng không một biểu hiện thiêng liêng nào nằm ngoài kinh nghiệm của ta. Quyền năng tâm linh ở mức thấp nhất là một phần của sự biểu hiện thiêng liêng, và có bản chất cao hơn hẳn những sinh hoạt thuần vật chất trong cơ thể. Con người cần biết sự kiện là cuối cùng, mọi người sẽ có cảm nhận tâm linh cao và thấpnhư những bậc cao cả, thí dụ làđức Chúa. Điều ta nhắm tới là ngăn không cho quyền năng thấp biểu lộ trước khi những quyền năng cao thể hiện.Khi ấy quyền năng thấp chịu sự kiểm soát của tâm thức ở cõi cao, được điều khiển từ đây.
Thế giới có đông đầy người có cảm nhận tâm linh, thuộc đủ mọi loại.Họ đáp ứng chuyện ở cõi tình cảm, bắt được những ấn tượng cao hay phần nào ý tưởng được phóng xuống.Những trường hợp như thế luôn luôn có huyễn ảnh, sự biến dạng và diễn dịch sai lầm.Nó gây ra lắm vấn đề và là một lực mà các bậc thầy của nhân loại phải đối phó. Nó ảnh hưởng người ít thông minh nhất trong khối đông dân chúng, và tuy cho họ một ý niệm tổng quát dù là méo mó về Thiên cơ, lại khiến người trí thức dội ngược, và làm công việc của người phụng sự hóa phức tạp hơn.
Nói thêm thì theo đà tiến hóa những quyền năng tâm linh của người và vật sẽ đến với ta. Con người chọn cách tiến bằng sự dọ dẫm, thử nghiệm và học hỏi từ các sai lầm; về nhiều mặt ấy cách hợp lý nhưng chậm và dẫn tới khó khăn to tát. Vào lúc này có thêm sự kiện là vẫn còn ít hiểu biết về việc chăm sóc cho cơ thể, nên tình trạng yếu kém của cơ thể làm những quyền năng tâm linh thấp phát sinh dễ hơn bình thường. Chúng do vậy xuất hiện sớm trước hạn kỳ, trước khi tính chất và vai trò của chúng hay những luật quản trị chúng được thấu đáo.
Vì những điều này, ta càng phải thận trọng hơn và cách tốt nhất là để yên chúng.Lời chót là tất cả sách vở tâm linh chân chính đều có khuyến cáo về quyền năng tâm linh thấp, xin bạn đọc thêm về điều này trong Tiếng Vô Thinh, ngay ở những câu đầu.

Theo:
-Discipleship in the New Age, vol. II, A.A. Bailey