HAI CĂN BỆNH
Bài dưới đây tìm hiểu về hai bệnh theo quan điểm của huyền bí học.
A. Đồng Tính Luyến Ái
Một trong những vấn đề lớn ngày nay cho tâm lý gia và xã hội là việc gia tăng các trường hợp đồng tính luyến ái, cả nam lẫn nữ. Giải thích theo hiểu biết TTH thì đồng tính luyến ái là tình trạng còn 'rơi rớt' lại từ thời Lemuria (mẫu chủng thứ ba), do tình dục quá độ khi ấy, nên ta có thể nói đó là sự thừa hưởng chuyện có hại từ xưa. Vào thời đó, lòng ham muốn tình dục quá mạnh nên việc giao hợp theo lối thông thường không làm thỏa mãn dục vọng vô độ của ai tiến hóa hơn, do đó có việc dùng những cách thức khác.
Hiện giờ những người có khuynh hướng này tái sinh với con số đông đảo, tiếp tục áp dụng cách đó vì thói quen xưa vẫn còn quá mạnh đối với họ, tuy nhiên bây giờ họ đã tiến xa hơn trên thang tiến hóa và cách chữa trị có đó nếu họ chọn làm theo. Họ có thể chuyển động lực tình dục lên huyệt cổ họng khá dễ dàng, và nhờ vậy thành có tính sáng tạo theo nghĩa cao, hướng năng lực đi theo đúng cách và dùng nó một cách đúng đắn và xây dựng. Nhiều người trong số này đã tự động làm như thế, nhưng điều thấy rõ là trong giới gọi là nghệ sĩ tình trạng đồng tính luyến ái rất hay gặp. Ta dùng chữ 'gọi là' vì nghệ sĩ chân chính có óc sáng tạo không phải là nạn nhân của thói quen tệ hại ngày xưa đó.
Tật đồng tính luyến ái có thể chia làm ba loại:
1. Là kết quả của lối sống thuở trước. Nó là nguyên do chính ngày nay và hàm ý:
– Linh hồn tương đối phát triển nhiều trên đường tiến hóa thời Lemuria và chìu theo việc thỏa mãn lòng ham muốn. Hệ quả là sau đó họ học huyền thuật về tình dục, cộng thêm với thúc đẩy về vật chất và tình dục không sao thỏa mãn được.
– Linh hồn có thể trong nhiều kiếp liên tiếp tái sinh theo cùng một phái tính, kiếp này khi đổi sang phái tính khác, thói quen từ lâu có thể khó thay đổi và họ cảm thấy bị thu hút về khuynh hướng của kiếp xưa (xin đọc lại chuyện Vị Chân Sư I).
– Vào thời cực thịnh của nền văn minh Hy Lạp cổ, phái nam có nhiều cơ hội phát triển về trí tuệ hơn là phái nữ. Người nam do đó thường chỉ có thể bàn luận các vấn đề mà họ ưa thích với ai cùng phái, vì khó tìm người nữ có hiểu biết tương xứng về cùng đề tài. Tình bạn giữa phái nam với nhau được khuyến khích, nhưng nó đi quá xa và trở thành đồng tính luyến ái. Đây là diễn biến ngoài ý muốn của các Vị trông nom Hy Lạp thời đó.
Nơi đây ta thấy trở lại hoàn cảnh sinh ra tật, đó là ở cả hai chỗ Hy Lạp và châu Lemuria nói trên, người có khuynh hướng này thường có tài năng hơn đa số ai cùng thời với họ. Tình trạng tương tự cũng thấy ngày nay như nhà vẽ kiểu thời trang, văn sĩ, tài tử, họa sĩ có tài hoa v.v.
2. Đồng tính luyến ái do bắt chước.
Có một số người thuộc mọi tầng lớp bắt chước ai cao sang hơn, và do vậy làm nẩy nở thói quen xấu về tình dục mà lẽ ra họ không vướng phải. Đây là một trong các lý do chính thấy ở người nam và người nữ hiện giờ, dựa trên óc tưởng tượng quá mạnh, cộng thêm bản chất tình dục hay thể chất mạnh mẽ, và óc tò mò xấu xa. Nhiều người đồng tính luyến ái nam và nữ nằm trong loại này.
3. Có một số ít, rất ít, thuộc loại lưỡng tính, có trong người cả hai loại tính dục. Họ phải trực diện với vấn đề rất thật, và vấn đề ấy tăng bội nhiều hơn do sự thiếu hiểu biết của con người, việc con người không chịu đương đầu với sự kiện, có chỉ dạy và tập luyện sai lầm lúc nhỏ, và hiểu lầm to tát.
Ta thấy rằng tâm tính trên có căn nguyên trong thể tình cảm, thể của cảm xúc; dục vọng phát sinh và tìm cách thể hiện bằng sinh hoạt này hay kia. Bởi thể tình cảm sinh ra tình trạng sai lầm về thể chất, có sự nhấn mạnh về việc người ta cần phải hiểu tính chất của thể và làm chủ nó nếu muốn lành bệnh.
Đồng tính luyến ái không đúng không phải vì mặt đạo đức, mà bởi về mặt huyền bí nó trái với cách lực tác động. Lực nơi người nam khác lực nơi người nữ khiến cho sự phối hợp có tính bổ túc, sinh ra tốt lành cho cả hai, nâng cao họ; còn khi có sự phối hợp hai lực cùng phái, chúng không bổ túc đưa tới kết quả như thiên nhiên ấn định, và do đó không được khuyến khích. Cũng tương tự vậy, nhìn theo mặt các lực vận hành thì tính thủ dâm bị xem là bất lợi, do lực sinh ra quay trở lại trên chính cá nhân tạo thành vòng kín, thay vì điều nên làm là hướng ra ngoài hòa với lực khác.
Cách chữa thì bởi người đồng tính luyến ái thường có tài năng, vậy họ nên sống đời sáng tạo toàn vẹn, nhất là cách sống nào làm lợi cho đồng loại mình, mà không phải chỉ là việc chuyển hóa thúc đẩy về tình dục thành suy nghĩ sáng tạo. Làm như vậy thì vẫn chỉ thuần là suy nghĩ mà không có hành động cụ thể, tạo ảnh hưởng rõ rệt cho cuộc sống nơi cõi trần.
2. Ung Thư.
Đây là bệnh bắt nguồn từ thời Atlantis (mẫu chủng thứ tư), và là nguyên do chính làm tiêu diệt người thời ấy. Bệnh bắt nguồn từ tình cảm hay dục vọng và nằm sâu trong thể tình cảm; ung thư một phần là phản ứng của người với những bệnh về tình dục, lan tràn rộng rãi vào cuối thời Lemuria và đầu thời Atlantis. Người thời đó thấy sự tai hại và mức độ của bệnh do tình dục buông thả gây ra, nên để bảo toàn tính mạng họ chặn lại đường tuôn chảy tự nhiên của dục vọng (tức năng lực tuôn qua trung tâm lực sinh dục và truyền giống). Theo với thời gian sự cản ngăn này sinh ra những chuyện tệ hại khác.
Như vậy, ung thư chính yếu là bệnh do sự ức chế mà ra, nó chuyển sinh lực từ thể xác đi vào thể tình cảm, cho kích thích quá độ làm sức sống của tế bào phát triển vượt mức. Lời giải thích này khó hiểu mà ta không được cho biết thêm chi tiết, và phải chờ có những khám phá về sau để chứng thực. Vì vậy, khi con người biết cách kiểm soát tình cảm đúng đắn thì ung thư dần dần mất đi. Ý chính là ở chữ 'đúng đắn', có nghĩa dùng ý chí để đè nén và ngăn cấm dục vọng không được xem là việc kiểm soát đúng cách.
Tuy hai phái nam nữ đều cùng mắc bệnh, nguyên nhân nói chung lại không giống nhau cho dù nguyên nhân căn bản, tức phản ứng đối với sự biểu hiện vượt mức của đời sống tình dục do dục vọng được nuôi dưỡng, vẫn là một. Phụ nữ, do rủi ro của việc mang thai, phản ứng với việc nhấn mạnh mặt tình dục trong cuộc sống. Họ phản đối điều ấy và ức chế chính của phái nữ nằm ở mặt tình dục. Với người nam thì có khuynh hướng rõ rệt muốn làm chủ mặt tình cảm nhiều hơn so với người nữ, vì vậy sự ức chế của họ nhiều hơn về mặt này và hệ quả là đông người nam bị ung thư hơn người nữ.
Trong thời đại hiện nay, ung thư rõ ràng là kết quả do hoạt động của hạ trí và của việc cái trí kích thích thể sinh lực. Nó là bệnh lớn sinh ra do kích thích cho khối đông giống dân thứ năm, và luôn thấy liên quan đến các trung tâm lực. Ta sẽ thấy rằng trung tâm lực trong vùng có ung thư bị linh hoạt quá mức, với hệ quả là tăng luồng năng lực tràn vào cơ thể. Năng lực này và việc kích thích quá độ một trung tâm lực xẩy ra không phải chỉ vì hoạt động của trung tâm lực và việc tỏa lực từ đây, mà còn là vì sự đè nén mà cái trí đặt để lên hoạt động của trung tâm. Nó làm năng lực dồn ứ lại, và ta có việc quá nhiều năng lực bị tụ vào một chỗ riêng biệt nào đó.
Một trong nguyên do chính của ung thư có liên hệ với huyệt xương thiêng và vì thế liên hệ với bộ phận sinh dục, là việc đè nén đời sống tình dục với chủ ý tốt, ức chế mọi tư tưởng có liên can đến tình dục, sinh ra do người chí nguyện bị lầm lạc. Họ là những người thấy lời giảng dạy của thời trung cổ về việc độc thân và đời sống tu viện là đường có ít đối kháng nhất. Trong thời đại ấy, người tốt lành dạy rằng tình dục là chuyện xấu và tệ hại, là điều không nên được nhắc tới và là nguồn tiềm ẩn gây ra vấn đề. Phản ứng bình thường, thay vì được kiểm soát và chuyển hóa thành hoạt động có tính sáng tạo, lại bị đè nén mạnh mẽ và mọi tư tưởng về đời sống tình dục đều không được biểu lộ.
Dầu vậy, năng lực theo sau tư tưởng, với kết quả là loại năng lực có sức thu hút đặc biệt ấy lôi kéo về mình ngày càng nhiều tế bào và nguyên tử, thành cái nguồn sinh ra bướu, và ung thư vì thế lan tràn ngày nay. Chuyện y vậy cũng có thể nói về sự đè nén dữ dội mà người chí nguyện áp đặt cho mọi phản ứng tình cảm và cảm xúc. Khi gắng sức làm chủ thể tình cảm, những người này dùng cách thức là trực tiếp ức chế và đè nén. Sự đè nén ấy làm huyệt đan điền (solar plexus) thành nguồn dự trữ lớn lao năng lực bị kềm hãm một cách dữ dội.
Nó muốn nói không có việc chuyển hóa các tình cảm thành ước vọng và tình thương, mà cũng không có hướng dẫn để làm chủ các lực này. Năng lực sống động bị tập trung như vậy sinh ra ung thư bao tử, gan và đôi khi trọn cả vùng bụng. Tóm tắt thì:
– Hoạt động quá độ của một trung tâm lực,
– Lưu giữ năng lực không biểu lộ được và bị ngăn cấm,
là những nguồn dễ sinh ra ung thư.
Một trong những lý do vì sao ung thư ngày nay có nhiều hơn thời trước, lúc mà bản năng hợp bầy (herd instinct) hay tâm lý quần chúng chưa mạnh như ngày nay, là vì cơ thể bị tăng kích thích. Sự kích thích ấy có do ta tiếp xúc thân cận với nhau trong đời sống hằng ngày, nhất là trong thành phố, đô thị. Bởi tế bào là sinh vật sống động, chúng đáp ứng với đời sống nhóm; khi luồng năng lực không ngừng tuôn vào nhóm tế bào, nó làm sinh ra nơi loại người nào đó việc kích thích quá độ một phần của cơ cấu tế bào trong cơ thể.
Ung thư hay xẩy ra khi thể sinh lực bị yếu kém ở một chỗ nào, có nghĩa sự kháng cự của tế bào bị hư hại và kết quả thường là ung thư hay tình trạng ăn lan nói chung. Đây là nguyên do căn bản tuy việc nghiên cứu đương thời chú ý vào nguyên nhân thứ cấp, và ảnh hưởng của sự yếu kém trong thể sinh lực. Như thế việc hiển nhiên là khi học hỏi về thể sinh lực, có hiểu biết và thông cảm nhiều hơn, người ta sẽ có thể chữa trị những bệnh như ung thư hữu hiệu hơn.
Nói chung thì cách tương đối giản dị là giải phẫu, xạ trị và hóa trị ngày nay có vẻ là cách duy nhất để chữa trị. Nhìn theo tính chất các cung, sự kiện tế bào ung thư sinh sôi vô kể được cho là vì ý muốn sống (thuộc cung một) của chúng hóa ra có tính phá hoại đối với cơ thể mà chúng là một phần. Ta thấy rằng khó có thể đi vào chi tiết việc chữa trị khi thể sinh lực chưa được nhìn nhận, khi người ta chưa biết làm việc một cách khoa học và thông minh với các huyệt trong thể.
Nói về cách chữa nên theo mà tự nhiên là chưa làm được vào lúc này, vì con người chưa có đủ hiểu biết để nhìn nhận một số nguyên tắc tâm linh, ta nhắc lại là trong tất cả những bệnh nặng, có một tâm sống động hay một điểm năng lực linh hoạt hấp thu hoặc chậm chạp hoặc mau lẹ sinh lực của người. Thường thường với ung thư, điểm năng động này không được khám phá lúc bệnh mới phát mà chỉ tìm ra lúc tình trạng đã rõ ràng, khiến cho rất khó chữa trị. Tuy vậy bệnh có thể chữa dứt khi mới bắt đầu và bệnh nhân sử dụng ý chí của mình.
Ngoài ra ta không thể làm gì mấy với bệnh ung thư trừ phi có sự hợp tác thông minh của người bệnh, vì cách duy nhất là hòa hợp ý chí của bệnh nhân và ý chí của nhóm chữa bệnh làm một, rồi theo luật bất biến năng lực tụ hội sẽ theo sau tư tưởng, kích thích vùng chung quanh nơi có ung thư, tức các mô lành mạnh để chúng hấp thu những mô yếu, bệnh. Thay vào đó, nếu năng lực được hướng vào bệnh, ung thư sẽ được kích thích và tình trạng tăng lên nhiều lần.
Việc chữa bệnh trong giai đoạn sớm sủa qua hai giai đoạn sau:
– Có sự kích thích các mô lành.
– Tạo các mô mới để thay thế mô có bệnh dần dần bị tống xuất ra.
Tóm tắt thì loại người giầu tình cảm dễ mắc bệnh ung thư hơn, và sống đời linh hoạt hết mức có thể ngăn ngừa bệnh tuy không phải luôn luôn được vậy.
Nói thêm về vài phương pháp có tính tâm lý và chữa hết bệnh, ta được cho biết là:
– Cần phân biệt giữa tác động của thể sinh lực và thể tình cảm đối với thể xác, và
– Trong thể sinh lực có những huyệt đạo tiếp nhận năng lực từ bên ngoài và làm linh hoạt thể xác.
Với cách chữa nhằm làm thay đổi thái độ, tâm tình của người bệnh, khiến họ phản ứng với cuộc sống và hoàn cảnh trong đời theo cách đúng đắn (thí dụ luôn luôn nghĩ điều tích cực), thì đây là chủ trương đúng nhưng nó sai khi tin rằng chỉ như thế là đủ, và không biết gì về sự liên hệ giữa thể sinh lực và thể xác. Nói khác đi, vì thể sinh lực đứng giữa thể tình cảm và thể xác, khi làm ngơ vai trò của thể sinh lực (như chỉ chú trọng vào tình cảm vui vẻ) là ta không có gì liên kết thể tình cảm với thể xác, và như thế có khoảng trống trong việc lý luận và hệ quả là có sai lầm về kỹ thuật chữa lành.
Nó muốn nói cách chữa chỉ nhắm vào việc thay đổi thái độ thật ra vô ích, ngoại trừ mặt tâm tính. Cách này có mục đích hữu dụng là chữa lại tâm tính dễ gây nguy hại cho người bệnh, nhưng khi nó chữa lành thì ấy là do bệnh nhân tới lúc khỏi bệnh, mà không phải vì đó là cách chữa dứt. Bởi thế, cho rằng phương pháp chữa được bệnh thì cả người chữa và người bệnh bị sai lầm, và mọi lầm lạc đều nguy hiểm cùng gây trở ngại.
Chuyện cũng cho thấy là chỉ khi nào thể sinh lực được nhìn nhận thì khi đó mới mong có cách chữa trọn vẹn cho ung thư và nhiều bệnh khác. Lại nữa, khi ung thư là một trong những bệnh hàng đầu làm chết người, và thân xác bệnh hoạn sau đó được chôn vào lòng đất thì địa cầu cũng bị nhiễm độc theo, gây ảnh hưởng cho người sinh sống trên mặt đất lẫn cây cỏ sinh trưởng trên đó. Như thế, hỏa táng là cách thích hợp để ngăn chặn sự nhiễm độc của đất, và là cách thực hành cần được khuyến khích nhiều hơn.
Giải thích thêm về ung thư thì như trên đã ghi, đây không phải là bệnh có nguồn gốc vật chất thuần túy. Trong tất cả những trường hợp bệnh nặng, người ta có thể thấy vật tựa như con cua có cấu tạo gồm chất liệu thanh. Vật này là tinh linh nhân tạo (xin đọc bài 1001 Chuyện số này) mà bệnh nhân đã tạo ra một kiếp trước, hoặc chủ ý nếu tập ma thuật để làm hại kẻ khác, hoặc là kết quả của tình cảm mạnh mẽ có tính độc ác.
Khi được tạo ra, tinh linh còn đó hoài và bám theo thể sinh lực của họ, Karma của người này là hấp thu nó và chuyển hóa sinh vật do nỗi đau khổ (xin đọc lại chuyện Vòng Tái Sinh, chương Ai Cập). Sau khi bệnh nhân qua đời, tinh linh tan rã cùng thể xác và thể sinh lực; tuy nhiên nếu họ từ trần trước khi hấp thu và chuyển hóa nó, khi ấy vật có thể tiếp tục còn đó trong ngôi nhà của người bệnh. Đây là lý do huyền bí cho việc căn nhà mà ai tới đó ở dễ bị ung thư, vì tinh linh gây bệnh cho ai mà nhân quả khiến họ phải chết vì bệnh này.
Lẽ tự nhiên là vật không thể bám vào ai có cơ thể lành mạnh, mà chỉ đeo theo được cơ thể nào có điểm tương ứng với nó, như có sẵn đau yếu, hay có tình cảm tệ hại. Mặt khác, với trường hợp bệnh nhẹ không có bướu độc tăng trưởng, ta không thấy có sinh vật bám theo.
Điều đáng nói là bởi ung thư có nguồn gốc tâm linh, chuyện hợp lý là nó có thể được chữa bằng vài phương pháp tinh thần. Khi đó, tinh linh được giải trừ và tan rã. Khoa học có thể giải thích là bệnh hết do điều này hay kia, nhưng ai nhìn được sự việc sẽ có lý do chính đáng để không đồng ý.
Nhìn chung, dù rằng có nhiều điều chưa thể làm được vào lúc này, hay nằm ngoài tầm tay của ta, việc có hiểu biết về TTH khiến ta có bổn phận phải làm những gì có thể làm theo sự hiểu biết của mình để giúp người, và giúp họ có những điều chỉnh khi cần. Không gì có thể ngăn chặn ta phụng sự theo đường lối này, ngay cả khi ý thức rõ giới hạn và nhìn ra là còn nhiều điều ta chưa biết. Lời khuyên là ta làm hết sức mình để khuyến khích, thông cảm, chỉ ra những cách sống sai lầm, và thay đổi tâm lý; kế đó, sẵn sàng thay đổi quan niệm của mình khi biết điều khác hay hơn.
Trên hết thẩy trong đời là tuôn ra tình thương trọn vẹn nhất cho những ai đến với ta nhờ giúp đỡ, vì tình thương làm giải tỏa, điều chỉnh và diễn giải, chữa lành trong cả ba cõi.
Theo:
- Esoteric Healing, A.A.Bailey.
- An Outline of Modern Occultism, Cyril Scott.