TÍNH CHẤT CÁC NHÓM
Thời Bảo Bình (Aquarius) ta đang bước vào là thời đại làm việc theo nhóm, trong bài này ta sẽ tìm hiểu sơ qua về tính chất ấy, và rút ra vài ứng dụng thực tiễn.
● Lý Do Thành Lập Nhóm.
Trong quá khứ, các nhóm được thành lập hoặc vì lợi ích chung, quyền lợi chung, học hỏi và hỗ trợ chung. Nhóm tạo thành quả tốt đẹp mà đó cũng là cái rủi cho nhóm, vì tuy động cơ của nhóm có thể cao cả và tốt lành, nhưng thực ra các nhóm có căn bản ích kỷ với một dạng ích kỷ tinh thần khó vượt qua nhất, mà muốn loại trừ nó người ta cần phát triển khả năng phân biện các làn rung động.
Ta ngưng ở đây một chút để giải thích thêm về tánh phân biện. Trong quyển Dưới Chân Thầy, tánh phân biện được giải thích một cách giản dị là phân biện chuyện có ích nhiều với chuyện có ích ít. Xa hơn một chút là sự phân biện tinh tế hơn những điều đối nghịch như sự im lặng đúng và sai, lời nói đúng và sai, hiểu biết đúng và sự dửng dưng đúng với đối nghịch của hai điều. Tiến lên cao nữa người ta khám phá là tính phân biện lại còn tinh tế hơn và liên quan tới làn rung động. Nay anh cần phân biện giữa nhiều làn rung động khác nhau đến từ:
- Chân nhân hay linh hồn của anh.
- Nhóm mà anh thuộc về dù không ý thức.
- Vị Chân sư đứng đầu nhóm.
- Cung của anh, v.v.
Loại phân biện cao này ban đầu có tính trí tuệ mà khi thực hành lâu biến thành bản năng, và chót hết là trực giác nhận biết. Trong các nhóm nói ở trên, người yếu kém nhất gia nhập và được xếp vào hàng ngũ nghiêm nhặt, rồi ai có uy lực nhất cuối cùng khống chế và người chống đối hoặc bị loại trừ hoặc làm cho tuân phục hoàn toàn. Nhóm nào thành công là nhóm tụ họp những ai suy nghĩ giống nhau, vì không ai suy nghĩ bằng trực giác; họ được quản trị bởi một trường phái tư tưởng hay bởi một nhân vật ở trung tâm chế ngự hết mọi người khác, dẫn dụ họ vào tình trạng thụ động, tuân lời. Điều ấy có thể là sự vinh quang của nhóm và của vị thầy, mà chắc chắn không phải là sự vinh quang của Thượng đế.
Điểm phân biệt các nhóm này hay nhóm sinh hoạt theo đường lối đã qua với các nhóm mới, làm việc theo các luật tinh thần, là người trong nhóm mới kết hợp với nhau do có ước vọng và mục tiêu chung. Nhóm gồm các linh hồn tự do, cá biệt và đã phát triển, không nhìn nhận một thẩm quyền nào ngoại trừ linh hồn của họ, và đặt mục đích của nhóm nói chung lên trên quyền lợi riêng của mình. Hoạt động cách này sẽ làm nâng nhân loại mau lẹ hơn.
Tinh thần nhóm là tinh thần của tân kỷ nguyên, nên việc thành lập nhóm mới này chính yếu là thử nghiệm cho cách làm việc theo tinh thần mới, kế tiếp điều đáng lưu ý là nhóm được thành lập không phải với mục đích làm toàn thiện mỗi cá nhân riêng rẽ trong nhóm. Đây là căn bản thiết yếu ta cần nắm vững nếu muốn hiểu rõ tính chất và sinh hoạt của nhóm mới. Trong các nhóm như vậy, thành viên bổ sung và tăng cường cho nhau, làm nhóm có khả năng biểu lộ chuyện tinh thần hữu ích, qua đó năng lực tinh thần tuôn tràn không gặp ngăn trở, để giúp đỡ nhân loại.
Cho mỗi người trong nhóm, điều kiện căn bản là có thân xác trong sạch, làm chủ tình cảm và trí não ổn định, những điều này cũng là mục tiêu của việc thực hành mỗi ngày.
● Đặc Tính của Nhóm Mới.
Một trong những đặc tính làm phân biệt các nhóm phụng sự trên thế giới là sự tổ chức bên ngoài rất mơ hồ, ít ỏi tới mức ai đứng ngoài quan sát sẽ cho là không có. Nhóm được giữ với nhau bằng tư tưởng bên trong, tương tác chặt chẽ bằng thần giao cách cảm. Vì sao ? Mẫu mực cho nhóm là Thiên Đoàn (Hierachy), các đấng Cao Cả liên kết với nhau theo cách ấy, khi cần thì các ngài có thể tiếp xúc với nhau mà dùng rất ít lực. Tất cả các ngài hòa theo một làn rung động riêng, và các nnhóm mới cũng phải hòa theo giống vậy.
Theo cách đó, nhiều người tụ hội với bản chất có khác biệt lớn lao, người trong nhóm thuộc những cung khác nhau, có đủ mọi quốc tịch, giòng giống cũng như từ các môi trường tách biệt nhau. Vấn đề mà người trong nhóm gặp phải thì rất phức tạp, nên câu hỏi đặt ra là làm sao có thể tạo sự liên hệ giữa người trong nhóm ?
Điều ta cần nhớ là chúng ta sống trong một biển năng lực, và mỗi người là một khối kết hợp nhiều năng lực khác nhau, như tình cảm, trí tuệ và thể sinh lực (hay thể phách). Thể này của ta là một phần nằm trong thể sinh lực địa cầu, và rộng ra hơn là thể sinh lực của thái dương hệ. Vì thuộc về một thể chung như vậy, nói cho sát thì mỗi con người thực sự liên hệ với mọi biểu lộ của sự sống thiêng liêng, lớn hay nhỏ. Sự kiện này được kinh sách nói đến từ lâu qua ý 'Vạn vật đồng nhất thể' hay 'Vạn vật đại đồng'.
Vai trò của thể sinh lực là tiếp nhận động lực, bị chúng lôi cuốn vào hoạt động hay vào các dòng lực phát sinh từ nguồn này hay kia. Trên thực tế thể sinh lực không gì khác hơn là mạng lưới năng lực, vì nó gồm vô số các đường năng lực rất mảnh tương ứng với thể tình cảm và thể trí và linh hồn. Ba cái sau cho ảnh hưởng lên sự xếp đặt của thể sinh lực. Những đường năng lực này tới phiên chúng ảnh hưởng lên thể xác, khiến có hoạt động này hay kia tùy theo bản chất và sức mạnh của bất cứ loại năng lực nào mạnh nhất trong thể vào thời điểm nào đó.
Năng lực luân chuyển trong thể thường là phát sinh từ một trí tuệ. Nếu xét con người như là một khối thì đám đông quần chúng có phản ứng không ý thức đối với lực phát ra từ Thiên Trí, tuy vậy đáp ứng này hóa phức tạp hơn vào thời đại của ta do ảnh hưởng của dư luận. Đáp ứng này ngày càng lớn mạnh theo trí tuệ đang tiến hóa mau lẹ nơi con người. Trong khối đông cũng có những người đáp ứng với nhóm các Tư Tưởng gia bên trong, làm việc nơi cõi trí, kiểm soát mặt chủ động của sự sống, làm cho Thiên Cơ thành tựu và sự thể hiện của mục tiêu thiêng liêng.
Nhóm các vị này chia làm bẩy phần chính và có ba đấng chủ trì với tâm thức siêu việt, là đức Bàn Cổ (Manu), đức Di Lặc (đức Chúa) và đức Văn Minh (Mahachohan). Ba Ngài làm việc chính yếu bằng cách ảnh hưởng trí tuệ của các đạo sư và đạo đồ, rồi tới phiên các vị này ảnh hưởng những đệ tử. Người sau theo vai trò và trách nhiệm của mình, tìm hiểu Thiên Cơ và biểu lộ nó càng rộng càng tốt. Cho tới nay các đệ tử ấy thường là làm việc đơn độc, trừ phi liên hệ nhân quả mang họ lại với nhau; còn việc liên lạc bằng thần giao cách cảm chỉ có trong Thiên Đoàn giữa các đạo sư và đạo đồ, đang ở trong thể xác hay hiện thời chưa tái sinh, liên quan đến việc làm riêng của các ngài với đệ tử của mình.
Vì tính chất ấy, tới nay nhóm như vậy hoàn toàn làm việc chỉ có người trong nhóm biết với nhau, nhưng nay trong thời đại mới, chúng có thể được lập bên ngoài, các nhóm mới sẽ thành hình như là sự hiển lộ – đang trong giai đoạn thử nghiệm – của các nhóm làm việc bên trong, được thúc đẩy bởi nhóm ở trung tâm là Thiên Đoàn.
Ta nói ở trên việc lập nhóm mới có tính thử nghiệm về sự hòa hợp trong nhóm, và cách phát triển sự hòa hợp đó. Lý do các đấng bên trong nay thử nghiệm với ý tưởng về nhóm là bởi đây là khuynh hướng rõ rệt của tân kỷ nguyên. Các ngài tìm cách sử dụng xu hướng ngày càng tăng của nhân loại nhắm đến sự kết nối, hòa hợp. Điều cần luôn nhớ là bao lâu chưa có sự kết nối bên trong thì mọi hình tướng bên ngoài cuối cùng sẽ tan rã hay không hề nối kết với nhau. Chỉ có sự kết hợp và việc làm bên trong mới mang lại thành công, và việc làm ấy phải dựa trên căn bản là sự liên hệ giữa linh hồn với nhau, mà không phải là tình thân cá nhân hay lòng ưa thích riêng tư. Điều sau này có lợi khi cùng lúc người ta nhận ra dây liên kết giữa linh hồn thiêng liêng của nhau. Khi hội đủ điều kiện như vậy thì nhóm có thể tạo nên điều bất tử, kéo dài như chính linh hồn.
Thực tế thì phải nói rõ đây là các nhóm mẫu, và do đó phải được tạo hết sức chẫm rãi và thật cẩn thận. Mỗi ai là một phần của nhóm mới sẽ gặp thử thách, chịu nhiều áp lực; ấy là chuyện cần thiết nếu nhóm muốn đứng vững trong giai đoạn giao thời hiện nay. Mặt khác, lập nhóm mới vào lúc này không dễ vì phương pháp và kỹ thuật khác xa với cách đã dùng trong quá khứ. Người ta có thể thực tâm muốn tham dự vào đời sống nhóm và là một phần của sinh hoạt nhóm, nhưng khó khăn thực sự nằm ở việc khiến đời sống riêng và làn rung động của họ qui thuận theo sự sống và nhịp điệu của nhóm.
Con đường hẹp mà tất cả đệ tử phải đi trên đó đòi hỏi việc tuân phục một số điều lệ được truyền từ quá khứ đến nay, họ phải sẵn lòng làm theo một cách có ý thức, mắt mở to nhìn thẳng vào sự việc, dù rằng không có đòi hỏi là họ phải theo sát từng chữ một. Sự kiện là luôn luôn cần có sự uyển chuyển trong giới hạn mỗi người tự đặt cho mình, tuy sự uyển chuyển không phải sinh ra do tính giãi đãi của cá nhân hay trí não thắc mắc. Với nhóm cho người chí nguyện, nó làm việc ở cõi tình cảm và trí, và bởi chuyện nơi cõi tình cảm cho ảnh hưởng ở cõi trần mạnh hơn là chuyện nơi cõi trí, mọi chỉ dẫn về đường đạo luôn đòi hỏi người ta làm chủ tình cảm của mình. Kế tiếp, bước phát triển tới của con người là phát triển trí tuệ, chuyện diễn ra là phản ứng của não bộ (thể xác) và tình cảm sẽ dần không còn gây chú ý trong tâm thức nhóm. Nay sự chú tâm là vào trí tuệ và mối liên hệ giữa các linh hồn với nhau, tức xử sự như là linh hồn thay vì là cái ngã.
● Tính Thử Nghiệm của Nhóm
Có bốn đặc tính được thử nghiệm qua các nhóm.
– Năng lực.
Mỗi nhóm chính tượng trưng cho một loại năng lực, nói khác đi là một loại năng lực riêng biệt tuôn chẩy qua nhóm vào nhân loại. Có mười loại như thế, và nhóm đóng vai trò là tụ điểm đón nhận lực tinh thần để ban rải ra. Cũng vì vai trò này, tất cả nhóm tinh thần đúng nghĩa sẽ có tác dụng chữa lành (là đặc tính của năng lực tinh thần) cho bệnh nhân hay nhóm bệnh nhân.
– Liên lạc.
Những cách liên lạc mới được thử nghiệm từ trí này sang trí kia, hay từ linh hồn này sang linh hồn kia.
Các nhóm sẽ không thành hình cùng một lúc mà xuất hiện tùy theo nhu cầu thế giới, lấy thí dụ tôn giáo mới sắp ra đời, thế nên nhiều nhóm sẽ được lập nên để cùng thực hiện điều này. Năng lực cung hai tuôn tràn qua nhóm loại đó, và với nhóm có phần việc về chính trị, nhiều người trong nhóm thuộc cung một khiến nhóm thành con kinh cho năng lực ý chí. Năng lực này tác động lên tâm thức giống dân và các nước, và các nhóm loại này là đường thông thương giữa 'văn phòng' đức Bàn Cổ (Manu) và nhân loại.
Loại năng lực chính thứ ba có tính sáng tạo, kết nối thế giới tư tưởng với diễn trình tạo tác. Ban đầu con người làm mà chưa hiểu rõ việc cụ thể hóa tiền bạc (tức cụ thể hóa dục vọng), rồi từ đây sang bước kế là vật chất hóa các vật. Nói giản dị thì nhóm này đang manh nha hoạt động, với khoa học về tài chánh thế giới thành hình từ khoảng ba trăm năm nay, và họ sẽ thể hiện mặt thiêng liêng của tiền bạc. Họ sẽ xem tiền bạc như là phương tiện nhờ đó mục tiêu thiêng liêng được tiến hành, các lực tạo tác thực hiện chuyện cần làm hơn là tạo ra vật thỏa mãn dục vọng. Sự phân biệt giữa hai loại tạo tác này đáng cho ta để ý.
Một số nhóm khác sẽ xuất hiện trễ hơn, sau khi vài điều kiện đã được thực hiện dọn đường cho chúng, thí dụ như khi con người đã phát triển thị giác của thể sinh lực, tức nơi cõi ether. Khi đó chuyện sẽ rất thú vị. Bốn cõi ether là nơi bắt đầu tạo mẫu cho thể xác theo đó thành hình, các lực tạo hình hài vật chất cho con người và các loài khác làm việc nơi đây, thế nên có thị giác cõi ether khiến phần việc đầu tiên sử dụng thị giác này sẽ liên quan đến vấn đề luân hồi. Hoặc nói theo khuynh hướng hiện giờ là dùng thủ thuật với DNA, di truyền thể, mong tạo thân xác mạnh khỏe; khi có thị giác cõi ether sự việc sẽ được nhìn theo quan điểm khác hoàn toàn mới lạ (xin đọc thêm bài Tìm Hiểu về Bệnh Tật trong số này về việc chữa bệnh tiềm ẩn cho thai nhi trước khi sinh ra). Đây là việc đầu tiên mà người trong nhóm sẽ bắt tay làm, họ sẽ có nghiên cứu, học hỏi sâu rộng hơn về luật tái sinh so với từ trước đến nay.
– Nhóm là sự hiển lộ tình trạng đang có bên trong.
Ta cần nhận biết các nhóm không phải là nguyên do mà là hệ quả. Đúng là chúng có thể cho ảnh hưởng khởi sự nơi cõi trần, nhưng tự chúng lại là kết quả của hoạt động bên trong, là tổng hợp của nhiều lực phải thành cụ thể. Như vậy một trong các phần việc của người trong nhóm là nhận biết loại lực tuôn tràn qua nhóm (cung hai, nếu là việc thành lập tôn giáo mới; cung một, nếu là việc chính trị; v.v.), và sử dụng đúng đắn.
Hoạt động bên trong có nỗ lực chung là mang lại những điều kiện mới và khác biệt để sinh ra một nền văn minh mới, tức tân kỷ nguyên trong thời đại Bảo Bình (Aquarius). Hoạt động bên trong là việc làm nơi cõi trí, và nền văn minh là biểu lộ của nó nơi cõi trần. Diễn trình đi theo thứ tự hằng có là mọi việc bắt đầu nơi cõi thanh trước, tư tưởng sẵn sàng rồi thì đương nhiên có việc thành hình ở cõi trần.
– Nhóm dọn đường cho sự thể hiện của vài năng lực cao, mang lại kết hợp trên địa cầu.
Phần này thuộc về tương lai nên ta chỉ có thể nói phớt qua. Tình trạng căng thẳng, rối loạn từ nhiều năm của thế giới thấy qua tranh chấp quốc tế, tôn giáo mất uy tín, khủng hoảng kinh tế và xáo trộn xã hội, tất cả đều là kết quả của năng lực vô cùng mạnh mẽ, nên chúng chỉ có thể có sự nhịp nhàng nhờ có áp đặt những năng lực khác mạnh hơn và được hướng dẫn rõ ràng. Khi các nhóm hoạt động đủ mạnh, hòa hợp với nhau thì một số công việc lạ lùng và bí truyền có thể được thành tựu.
● Năng Lực Vũ Trụ.
Ngoài chuyện xẩy ra trên trái đất, ta còn phải kể đến yếu tố bên ngoài tác động lên địa cầu, ở đây là các năng lực vũ trụ, chúng ảnh hưởng sự tăng trưởng của nhóm, về mặt tốt cũng như xấu. Đặc tính của một loại năng lực này là tạo nên sự kết hợp giữa các đơn vị trong nhóm, khiến chúng họp thành một vật thể sống động. Từ đây ta có ái tính của người trong nhóm với nhau, mục tiêu và việc làm của nhóm.
Sự kết hợp này cho ra nhóm như bộ tộc, quốc gia hay giống dân, và yếu tố quyết định không có tính vật chất hay có căn bản ở cõi trần. Chúng dựa trên lý tưởng nhóm mà chỉ có thể nhận biết khi các đơn vị của nhóm bắt đầu sinh hoạt nơi cõi trí.
Đây là vài kế hoạch mà Thiên Đoàn tìm cách thực hiện và mỗi ai chí nguyện đều có thể góp phần. Chúng được trưng ra cho mọi người thấy để gợi nên sự hợp tác lâu dài của chúng ta.
● Các Phong Trào Tâm linh
Nay áp dụng tính chất về nhóm này vào thời đại hiện nay nói về các phong trào tâm linh, ta thấy có hai tinh thần nhóm nổi bật, một là nhóm có đặc tính Song Ngư (Pisces) là thời đại vừa qua, và nhóm có đặc tính Bảo Bình (Aquarius) là tân kỷ nguyên ta đang bước vào. So sánh thì đặc tính Song Ngư được nói tới rõ và nhiều lần trong kinh thánh, tín đồ được ví như con chiên, và người lãnh đạo là chủ chăn. Cách suy nghĩ đưa tới thái độ tuân phục như bầy cừu đi theo người chăn cừu. Với tôn giáo thì đó là sự vâng lời theo uy quyền của giáo hội. Nó cũng mang nặng tính cách cá nhân, và tình cảm cùng con tim được chú ý nuôi dưỡng, vì đó là nhu cầu của con người trong thời kỳ ấy.
Dục vọng được tập cho trở thành ước nguyện, và cảm xúc được thăng hoa thành cảm xúc chuyện thiêng liêng cõi trời. Con người được dạy có lòng dâng hiến cho đức Chúa, lý tưởng được nêu ra, và lòng cuồng tín theo đuổi lý tưởng được khuyến khích. Ta thấy óc lý tưởng hóa, ước nguyện, lòng hiến dâng, khả năng nhận biết người lãnh đạo cộng với việc vâng lời đã phát triển trong thời Song Ngư, hay Nga Sô khi trước. Tính chất này trong tôn giáo cũng như chính trị dẫn tới óc tôn thờ lãnh tụ, tôn sùng cá nhân như thấy rõ ở bắc Hàn. Trong tình trạng ấy khó có thể có óc suy nghĩ rõ ràng, óc tự lực không nẩy nở. Điểm chính cho các nguy hiểm của ảnh hưởng Song Ngư nằm ở tính chia rẽ, lãnh tụ được đặt lên bệ cao tách xa với quần chúng, tín đồ xem mình là người 'được chọn' và cho là ai không cùng đạo, không chấp nhận chân lý trong kinh điển của họ sẽ gặp trừng phạt đời sau. Niềm tin ấy làm lan rộng óc phân rẽ.
Thời Song Ngư và những tính chất của nó có sự hữu ích và cần thiết riêng cho thế giới lúc ấy, nay nhân loại bước vào thời kỳ mới, con người đã tăng trưởng hơn về trí tuệ, tâm linh, về nhiều mặt các tính chất làm cho thời Song Ngư rực rỡ nay không thích hợp nữa và cần được bỏ lại, thay thế bằng tính chất của Bảo Bình. Điểm cần nói là không phải thời Song Ngư không tốt và thời Bảo Bình tốt hơn. Các đặc tính của Song Ngư ngày nay thành bất lợi chỉ vì con người đã qua giai đoạn ấy và không cần chúng nữa, còn thì tự chúng vô can, như sữa tốt cho em bé mà không còn tốt bằng cho thiếu niên, và thiếu niên cần thực phẩm khác nếu muốn phát triển. Mặt khác, các khuyết điểm của một thời kỳ chỉ lộ ra rõ nhất và cụ thể nhất vào lúc cuối. Ta nêu ra các thiếu sót của tính chất Song Ngư vì thời ấy vừa qua, hệ quả của những khuyết điểm này còn hiển hiện trên thế giới, ngược lại đây là thời kỳ đầu của Bảo Bình nên các thiếu sót đang ẩn tàng, và sẽ hiện ra mạnh mẽ vào cuối kỷ nguyên.
Thời Bảo Bình có thể gọi là thời hiểu biết với hiểu biết lan tràn. Song Ngư làm con tim thanh khiết còn Bảo Bình sẽ làm trí tuệ phát triển, con người trong thời đại này sẽ nổi bật với khả năng trí tuệ như biết định trí, có sức chú tâm mạnh vào bản thể của mình, biết mình là Chân ngã thiêng liêng. Anh hoạt động từ tâm này, có tự tin, óc tự lực theo nghĩa cao, và tự mình tìm đường mà không con người được dẫn dắt; đó là thái độ của người nhận biết linh hồn mình, làm việc một cách thông minh theo sự dẫn dắt của linh hồn.
Nhóm trong thời Bảo Bình sẽ gồm các linh hồn tự do, tự lực, mỗi người trụ vào tâm mình (self-centred) theo nghĩa tinh thần, họp lại với nhau làm việc để nâng cao nhân loại. Nhóm không được tạo quanh một nhân vật có tính khống chế, mà có hình thức là các tổ chức gồm người có hiểu biết, và hòa phàm ngã của mình vào sự tốt lành chung. Ta có thể nêu thí dụ vài nhóm mở đường như Human Rights Watch, Medécins sans Frontière, Amnesty International v.v.. Chúng không hoàn hảo nhưng biểu lộ ít nhiều tính chất của Bảo Bình.
Nhóm làm việc theo Song Ngư đang hoàn tất công việc của họ, và ấy là chuyện đúng cũng như cần thiết, vì thế giới vẫn còn hằng tỷ người mang tâm thức Song Ngư, tăng trưởng nhờ áp dụng tính chất của nó, như khối đông tín đồ Thiên chúa giáo. Nhóm Bảo Bình gồm những ai suy nghĩ độc lập, không nhắm mắt tin theo người nào, hòa hợp với mọi người tuy không theo phe phái riêng biệt, và có cái nhìn đại đồng không phân rẽ. Vì đây là buổi giao thời, thế giới có hai loại nhóm cùng hiện diện làm việc, chuyện không tránh được là có va chạm, nhóm này không nhìn nhận nhóm kia, ai cũng cho mình là đúng.
Vậy ta đi tới ý kế là cả hai nhóm đều cần thiết, như mẫu giáo và tiểu học, trung học đều có chỗ trong đời. Vấn đề chỉ là các nhóm có phương pháp khác nhau, theo con đường riêng của mình, và cả hai tính chất đều thiêng liêng. Song Ngư làm việc theo tình cảm, Bảo Bình theo trí năng, một bên dùng quả tim và bên kia dùng đầu óc, cách nào cũng đúng cho ai còn cần tới nó mà không cách này đúng hơn cách kia. Người Song Ngư tôn thờ lãnh tụ, giáo chủ sẽ gặp khó khăn khi họ mù quáng theo con tim và không dùng đầu óc, ta cũng có thể suy luận là ai có tính Bảo Bình thích độc lập, tự lực, chỉ theo đầu óc mà làm ngơ con tim, không chừng gặp vấn đề nguy hiểm nhất và khó nhất. Người Bảo Bình lý tưởng (mẫu mực của khoảng 2000 năm tới) là người biết tổng hợp con tim và khối óc.
Có hai câu hỏi sinh ra cho buổi giao thời ta đang sống, với hai tính chất đang chỏi nhau:
- Làm sao nhận biết phong trào có tính Song Ngư ?
- Làm sao nhận biết phong trào có tính tân kỷ nguyên ?
Để trả lời vắn tắt:
1. Phong trào Song Ngư luôn nhấn mạnh đến đẳng cấp, hàng giáo phẩm; tuyên bố rằng mình có thẩm quyền và luôn muốn thành viên tuân phục, chấp nhận lời tuyên bố của ai lãnh đạo. Họ đòi hỏi thành viên tuân theo một quyền lực trung ương, hệ thống giáo điều, kinh điển v.v.
2. Hiện nay ta có nhiều cá nhân có tính Bảo Bình hơn là phong trào Bảo Bình thật sự, vì tân kỷ nguyên chỉ mới bắt đầu, và còn quá sớm chưa đủ thời gian cho nhóm hoạt động thành công. Nói cho sát thì thời Bảo Bình chưa đến hoàn toàn, và ta chỉ mới có những người tiền phong. Đặc tính của họ là có tự do suy nghĩ, cho phép ai theo họ có tự do chọn lựa. Họ từ chối không nhấn mạnh một huấn sư, kinh điển hay tổ chức nào như là nguồn chân lý duy nhất, mà nhìn nhận tấc cả các nhóm nào trình bầy hiểu biết thiêng liêng qua khoa học, nghệ thuật, tôn giáo hay triết lý. Vì vậy, sẽ không có thù ghét, chỉ trích hay lên án lãnh tụ hay nỗ lực của nhóm nào khác. Họ sẽ có tính kết hợp, không gạt bỏ ai hay chỉ dành riêng cho một thiểu số nào, họ sẽ nhấn mạnh nguyên tắc mà không phải là cá nhân, có tính phụng sự thay vì theo đuổi mục đích có tính ích kỷ. Nhờ viễn ảnh rộng rãi và tầm nhìn đúng thật, họ sẽ đưa nhân loại tới sự đại đồng mà mọi người công nhận.
Ai nấy sẽ được tự do giảng dạy như họ thích, dùng từ ngữ của riêng họ để trình bầy chân lý theo cách nhìn của họ, và tìm phương pháp phụng sự của riêng mình. Dầu vậy, tất cả đều có hiểu biết chung là chỉ có một công việc mà có nhiều cách để thực thi, một Chân Lý chung vĩ đại mà có nhiều khía cạnh, cũng như một sự sống chung mà có nhiều hình thức biểu lộ.
Theo cách thức đó, mỗi ai đi tìm chân lý sẽ tự mình khám phá ra nó, và khi tìm được rồi sẽ nhận biết chân lý đó là một mà bao người qua bao thời đại ở khắp nơi trái đất cũng đã tìm ra giống vậy. Đằng sau mỗi tôn giáo có sự hòa hợp chung, đằng sau mỗi phương pháp có sự hợp nhất, và ai đi theo bất cứ con đường nào cũng gặp được Thượng đế trên đó.
Theo:
A Treatise on White Magic, A.A.Bailey.