KARMA và BỆNH

 

1. Nguồn Gốc của Bệnh.

Căn do của bệnh nơi mỗi người nằm ở việc chống đối Chân nhân không cho nó quản trị phàm nhân, và từ chối không chịu lắng nghe tiếng nói của lương tâm. Căn do này có thể được chia làm hai loại phụ; loại thứ nhất gồm karma sinh ra do phàm nhân theo đường của nó, và cố ý bịt tai đối với lời của Chân nhân. Kết quả là tội do phạm luật, chủ tâm có hành vi trái với nguyên tắc căn bản là sự hợp nhất. Loại thứ hai là karma sinh ra do Chân nhân thiếu kinh nghiệm, và  không cho ra hướng dẫn cần thiết cho phàm nhân. Nó sinh ra việc thiếu sót, đam mê lạc thú và không đặt mình vào kỷ luật và không có hành động. Giữa hai loại này  có nhiều biến thể mang cả hai nét với một nét trội hơn.
Tội do chủ tâm hành động sinh ra bệnh hiển hiện, còn tội do thiếu sót gây tình trạng bệnh tiềm ẩn có thể hay không thể thành  bệnh gây đau khổ, chúng lộ ra đặc biệt như là nhược điểm trong tánh tình và con người không có những khí chất để có cuộc sống khỏe mạnh. Rất hiếm có thí dụ thuần cho mỗi loại karma mà bệnh thường là phối hợp cả hai; dầu vậy sự phân loại này là chỉ dẫn hữu ích cho việc chữa trị.
Nói về hai loại bệnh như là có và không có hành động, bệnh thuộc loại đầu có vẻ như nhiều phần đáp ứng với cách chữa trị thuần thể chất, còn loại hai đòi hỏi những cách có tính tâm lý. Vì nhiều bệnh mang cả hai nét nên hai phương pháp trên thường là phải phối hợp, với cách này hay cách kia được nhấn mạnh tùy tình trạng của người bệnh đòi hỏi.
Ai cũng có karma gây bệnh tiềm ẩn vì có bản chất và tánh tình chưa phát triển; bệnh tiềm ẩn là nguồn nguy hiểm thường xuyên vì vậy y khoa phải được hướng tới việc toàn thiện các phương pháp phòng ngừa. Nền giáo dục trong tương lai sẽ đi theo hướng này, học trình được soạn  sao cho loại trừ các tánh nết có thể sinh ra karma gây bệnh, và tập cho con người có năng lực chống lại, làm thay đổi và cuối cùng vô hiệu hóa karma. Thêm vào đó là những phương cách áp dụng để loại trừ bệnh tiềm ẩn trong cơ thể. Chúng ta có thể nói lời nghịch lý là bệnh phải được chữa dứt trước khi nó hiện ra, và trẻ phải được chữa trị để loại trừ bệnh tiềm ẩn.
Trong những trường hợp karma quá nặng làm cho mọi cố gắng có vẻ như vô hiệu quả, việc chữa trị vẫn nên được tiếp tục đều đặn tới cuối đời; chữa trị như vậy và nhất là nỗ lực nơi người bệnh tuy dường như không ích lợi chi, thực ra có tính phòng ngừa cho nhiều kiếp sau này
Tình trạng lắm bệnh tật hiện giờ của nhân loại đòi hỏi là nghiên cứu y khoa cần hướng về việc chữa dứt bệnh, nhưng nó nên được xem như là giai đoạn tạm thời. Khi karma nói chung của con người hóa nhẹ bớt nhờ các phong trào tinh thần, nhờ số đông người có lòng nhân đang cố công trên thế giới hiện nay, bệnh sẽ trở nên dễ chữa trị hơn. Sự việc sẽ khiến cho khoa học gia bớt nghiên cứu về bệnh mà tìm các phương thức ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh sẽ không bao giờ biến mất trên địa cầu chỉ vì y khoa chữa dứt, mà đúng ra là nhờ tiến bộ tinh thần và học hỏi về huyền bí học, dẫn đến hiểu biết về sự kiện có bệnh tiềm ẩn và cách loại trừ chúng.
Karma có thể được nhận biết, sửa đổi và ngay cả việc vô hiệu hóa trước khi hiện ra nơi thể xác thành bệnh rõ ràng. Đi tới cùng  thì chỉ có lực và hiểu biết tinh thần mới đủ sức chữa dứt bệnh. Nhiều việc có vẻ như chữa hết bệnh mà y khoa thành công hiện nay, chỉ xẩy ra trong những trường hợp karma đã tan biến. Trong tất cả những điều kiện nhân quả khác, khoa học tự nó sẽ thất bại không tránh được.

2. Nguyên Nhân Siêu Vật Chất và Cách Trị.

Trong khi các bệnh nhỏ xẩy ra do nhiễm trùng không nhất thiết phải có nguồn gốc siêu vật chất, bệnh kinh niên luôn luôn có mặt tâm linh của nó. Căn nguyên của bệnh có thể ăn sâu đến thể trí, bệnh có nguyên do sâu như vậy có thể trở lại trong nhiều kiếp, nguồn gốc của nó nằm trong hành động là chủ tâm bác bỏ trong trí các mặt nào đó của chân lý, và duy trì thái độ ấy cho dù con người biết là nó sai từ căn bản. 
Một thí dụ cho loại này là lòng tàn nhẫn bất nhân, là đặc tính của người cai trị và thuộc hạ của họ trong mấy thế kỷ trước thấy nơi nhiều nền văn minh. Lòng nhẫn tâm ấy là tàn dư của giai đoạn bán khai mà con người vừa thoát ra, và nay họ đã tới trình độ nghe được tiếng nói của Chân nhân. Sự việc là theo quan điểm karma, sau khi đã thành người văn minh mà tiếp tục làm điều tương đối vô hại lúc là người bán khai, họ đã bác bỏ lời hướng dẫn của Chân nhân. Lời nói ấy nhắc nhở tính hợp nhất của muôn loài, vạn vật đồng nhất thể, là chân lý căn bản. Lòng tàn nhẫn là sự bác bỏ tính hợp nhất, và karma cho hành động như vậy phản ứng lên cả thân xác và tâm trí. Sự nhẫn tâm dưới hình thức này hay kia là nguyên nhân thông thường nhất của bệnh tật; ấy là tại sao bệnh tự nó có vẻ thật là tàn nhẫn.
Thuốc giải hay nhất cho mọi bệnh là nhìn nhận tính hợp nhất và biểu lộ của nó qua tình thương và phụng sự. Vì vậy ai có bệnh nên được dạy luật căn bản về sự hợp nhất và gợi ý phát triển cùng sống với tình thương. Có lẽ điều này là cách giản dị nhất để mang lại nét tinh thần khi dùng cách chữa trị vật chất, theo đó đa số người chỉ được đòi hỏi làm nẩy nở tình thương, ban rải tình thân ái cho mọi người và vật trong thế giới, và nhất là cho những ai kề cận chung quanh.
Về sau bệnh sẽ được chữa trị theo đường lối ấy. Người bệnh sẽ hoặc tham thiền để khám phá mặt yếu kém trong tính khí dẫn tới hành vi có thể tạo ra karma, hoặc nhờ vị thầy tinh thần chỉ dẫn, và rồi tập luyện để phát triển.
Sẽ có việc chữa trị khối đông người nhờ áp dụng nguyên tắc trên, và có lẽ nó càng ngày càng được dùng trong tương lai. Một số lớn người sẽ tụ họp quanh một vị thầy tinh thần để được chỉ dẫn cách sử dụng quyền năng bên trong của họ, và phát triển những đặc tính mà họ còn thiếu. Cá nhân và khối đông phải được giáo dục để khỏi bệnh, cũng như quan niệm của họ về các giá trị phải được thay đổi. Lòng ham muốn sâu đậm về sự sống trong thân xác, và việc điều sau có ảnh hưởng mạnh mẽ là kết quả của quan niệm sai lầm về các giá trị; lòng ham muốn này sinh ra do sự lầm lạc là căn nguyên khác cho bệnh tật.
Việc chỉ có tình cảm của thú tính và óc hưởng lạc sinh ra nhân quả ít nghiêm trọng cho thân xác vào giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa hơn là về sau, khi người ta bắt đầu có được hiểu biết về ý nghĩa thật của cuộc sống. Mức độ của việc phủ nhận tiếng nói của lương tâm là yếu tố chính, quyết  định bệnh nặng nhẹ và nhiều ít ra sao. Vì vậy khi tìm hiểu bản chất và karma của người bệnh, ta phải xem xét vị thế của họ trên thang tiến hóa. Ta có thể phát triển  khả năng xem xét karma từ bệnh đang có và ước lượng cách hóa giải nó. Sẽ có khám phá cách phân loại những nhân quả và bệnh tương ứng, và điều ấy có hữu dụng lớn lao nhất, còn thông nhãn  tuy có ích trong nghiên cứu sơ khởi và việc phân loại, không phải là chuyện thiết yếu. Khả năng định bệnh theo trực giác được dùng rộng rãi và áp dùng vào cõi siêu vật chất sẽ cho thấy vậy là đủ.

3. Cơ Chế của Karma Gây Bệnh.

Tựa như có một sai lầm căn bản là nguồn gốc chung cho tất cả nhân quả xấu đáp ứng, thì cũng có một bệnh căn bản sinh ra mọi hình thức của bệnh. Lầm lỗi chung, nằm sau mọi lầm lỗi, là lòng ích kỷ, tới phiên nó thì tánh này là do không nhìn nhận sự hợp nhất của muôn loài, vì vậy là kết quả của óc chia rẽ. Như thế karma căn bản nằm sau mọi bệnh sinh ra do óc chia rẽ, và tính này là căn nguyên của mọi tội lỗi cho dù karma có gây bệnh hay không.
Tương tự vậy, có một độc chất căn bản sinh ra mọi bệnh, và cũng có một tác nhân căn bản có thể truyền karma gây bệnh sang cho thân xác. Tác nhân này là vật chất đậm đặc đầu tiên của karma, tác động nơi cõi thanh trước khi cõi thấp bị ảnh hưởng. Tác nhân căn bản ấy có trong mọi người, và là một trong những phần nền tảng tạo nên cơ thể. Trong trường hợp của bệnh lộ ra, karma như là độc chất tình cảm và ether bám vào vật chất trong thể, và biến đổi nó từ tình trạng khỏe mạnh sang không khỏe mạnh
Sự thay đổi này ảnh hưởng và làm biến đổi vai trò của chất liệu trong thể, nên thay vì tạo dựng và hỗ trợ, nó lại làm cơ thể bị tổn thương. Karma gây bệnh tác động tương tự vậy đối với chất liệu của thể sinh lực và thể tình cảm, thay đổi các đơn vị sống, tương ứng với các phần căn bản trong thể xác, từ phần khỏe mạnh thành không khỏe mạnh.  Thay đổi trong chất liệu tình cảm tự động thể hiện qua chất liệu ether (cho thể sinh lực), và chót hết là phần vật chất đậm đặc cõi trần. Hạt nguyên tử nào nơi cõi tình cảm bị ảnh hưởng thì hạt nguyên tử tương ứng của nó ở cõi trần cũng đổi theo. Sự việc diễn ra tự nhiên và xẩy ra cho cùng bộ phận của thể cho cả ba thể.
Karma đến với con người và cho ra ảnh hưởng chính xác không sai chạy từ kiếp này sang kiếp kia. Sự liên kết giữa ba thể trí, tình cảm và xác trong kiếp sinh ra nhân quả, với ba thể những kiếp sau chịu ảnh hưởng của karma, nằm trong hạt nguyên tử trường tồn. Vật sau này cho ra bệnh hay tài năng khi luật rung động cảm ứng làm cho nó thực hiện phần việc giao cho nó.
Đời người diễn ra theo một loạt các chu kỳ nhỏ dài bẩy năm, mỗi chu kỳ có karma riêng hoặc thuận lợi hoặc bất lợi. Karma gây bệnh được hóa giải trong cùng chu kỳ nhỏ có hành động sinh ra nó. Thực tế là mỗi chu kỳ là một lần tái sinh thu gọn. Nếu hành động tiếp tục từ chu kỳ này sang chu kỳ kia, thì bệnh cũng diễn ra y vậy. Tuy nhiên luật biến đổi khi lực được phóng thích từ bên trong đương sự làm thay đổi karma của họ. Như vậy hai mươi năm phạm sai lầm có thể có karma được hóa giải chỉ trong vài năm, hoặc ngay cả một năm do nỗ lực.
Phần việc của Chân nhân là phát triển đức tính và phát ra những lực sửa đổi lại sai sót trong phàm nhân. Chuyện được thực hiện hữu hiệu hơn khi cái sau hợp tác với cái trước, và giá trị của việc giáo dục để chữa bệnh nằm ở điểm ấy. Mọi trị liệu nên có tính giáo dục vì như đã nói, karma có thể được nhận biết và vô hiệu hóa trước khi nó sinh ra ảnh hưởng cho cơ thể. Chân nhân áp dụng theo khoa học những lực làm trung hòa thì có thể làm chuyện dường như nghịch lý xẩy ra được.
Sự kiện này trong thiên nhiên được phe tả đạo áp dụng, nhưng họ không làm vô hiệu, tức giải quyết cho xong, mà giữ lại karma. Việc không vô hiệu được là do cuộc sống và động cơ của họ trở thành tột đỉnh của óc phân rẽ. Phần karma giữ lại cuối cùng vượt qua được hàng rào họ đã dựng lên, và họ bị một lực lớn hơn lực cuốn vào sự hợp nhất với Cái Đó – Tat mà tất cả mỗi chúng ta là một phần. Nếu luật mà họ sử dụng có thể được dùng với hiểu biết như ai mà tính chất căn bản là tình thương, thì các đòi hỏi của karma gây bệnh có thể được làm tròn trước khi nó thật sự ảnh hưởng chất liệu của thể xác. Mức độ thành công của nỗ lực sẽ tùy vào hiểu biết của người bệnh và người chữa bệnh về luật, và mức họ nhận biết về sự hợp nhất.
Ta có thể nghĩ về lực của karma như mầu sắc trong quang phổ, một mầu có thể hóa thành trắng nếu gặp và hòa vào mầu bổ túc của nó và biến mất hẳn. Các lực bất lợi có thể được làm cho không tác động khi có sự quân bằng hoàn toàn của những cực đối nghịch. Vì vậy phải có sự nghiên cứu sâu xa về karma của bệnh tật để có được hiểu biết, thứ nhất là về loại năng lực đằng sau mỗi bệnh, và thứ hai là năng lực có thể loại trừ bệnh.

4. Bệnh Tiềm Ẩn

Karma có tính song đôi, về mặt hành động nó biến đổi cấu trúc và bản chất của mỗi thể tức mặt ngoài, mà nó cũng hiện hữu trong tâm thức và biểu lộ như là tính tình có thiếu sót, có thể bị sai lầm hoặc có thể phạm sơ sót. Lời giải thích cho bệnh tiềm ẩn nằm trong tính song đôi ấy, cũng như là tính dễ mắc bệnh. Bệnh tiềm ẩn là sự biểu lộ bên ngoài điểm yếu trong tâm thức, một thiếu sót trong bản tính của phàm ngã. Nó không nhất thiết phải thành bệnh thật sự mà trong vài trường hợp, bản chất của karma cho con người cơ hội chữa lại thiếu sót, và giải quyết hoàn toàn trong tâm thức các đòi hỏi của karma. Họ làm được điều ấy bằng cách phát triển đức tính thay thế cho thiếu sót trong tánh khí.
Mặt khác, việc có bệnh tiềm ẩn luôn luôn là nguồn khả hữu gây nguy hại, vì nó làm cho đương sự dễ bị nhiễm trùng. Nó cũng có thể liên tục trì kéo lại sự phát triển của phàm nhân, và là việc thất thoát ngầm sinh lực trong cơ thể. Một số đông người, khỏe mạnh vừa phải mà không khỏe mạnh hoàn toàn, bị đau ốm theo lối này tuy họ không hề có bệnh lộ ra. Họ đặc biệt hợp với việc trị liệu bằng giáo dục vì như ta đã thấy, thiên nhiên và karma của họ cho phép giải quyết phần nợ bằng tâm thức. Họ cần tìm ra thiếu sót trong nội tâm, và thay thế chúng bằng đức tính đối nghịch phải có.
Tính đến hôm nay, mặt vật chất của bệnh được cho là phần quan trọng nhất, và là mặt duy nhất thường được nhận biết và chữa trị. Dần dần về sau mặt tâm thức sẽ thành mặt duy nhất mà người chữa bệnh quan tâm, cũng như vật chất tự nó sẽ tiến hóa hơn và do vậy dễ uốn nắn hơn, dễ chịu ảnh hưởng và tác động của thay đổi về tâm thức. Một kết quả của việc này là thiếu sót trong tâm thức sinh ra ảnh hưởng nặng nề hơn cho vật chất, mà nó cũng có thể làm người bệnh dễ chữa chính mình hơn bằng cách sinh ra thay đổi trong tâm thức họ.
Giai đoạn chuyển tiếp hiện thời đặc biệt đáng nói vì có khuynh hướng nhìn nhận mặt tâm thức của bệnh. Như thế sau khi đã hiểu các nguyên tắc về mặt vật chất của bệnh, về sau con người có thể quay sang tìm hiểu bệnh về mặt tâm thức. Họ sẽ thấy là sâu trong trí não có những đặc tính, ẩn ức và giới hạn lạ lùng, tất cả chi phối và uốn nắn việc tạo và phát triển các thể của con người.
Ảnh hưởng của những nguyên nhân sâu xa này xuất hiện chính yếu trong giai đoạn thai nghén, khi các thể đang được tạo ra. Theo quan điểm ấy mọi bệnh tật có nguồn gốc trước khi sinh, với khả hữu là bệnh nằm sẵn trong tâm thức và rồi được đặt vào các thể. Như vậy các điều kiện trước khi sinh có tầm quan trọng bậc nhất đối với sức khỏe của các thể đang được tạo hình, và karma thường xuyên được tụ thành chất liệu gây bệnh do khung cảnh bất lợi trước khi sinh.
Giai đoạn bào thai ở trong bụng mẹ là lúc nó đặc biệt đáp ứng với ảnh hưởng tinh thần, có nghĩa sự biến đổi do Chân nhân gây ra theo phần karma phải giải quyết sẽ dễ đạt được khi ấy, hơn là sau khi thân xác sinh ra. Chân nhân có ảnh hưởng nhiều hơn đối với tình trạng của các thể của phôi thai trong lúc đó, và thay đổi do nó tạo nên bằng phương tiện tinh thần thì dễ biểu lộ hơn trong các thể. Đây cũng là giai đoạn mà mầm bệnh được đặt vào các thể, nên việc trợ giúp theo cách tinh thần và việc có môi trường toàn hảo trong lúc mang thai có tầm quan trọng thấy rõ.
Nói về cách hóa giải karma bằng tâm thức, việc biểu lộ qua tư tưởng và hành động các tính chất của Minh Triết Thiêng Liêng là cách chắc chắn nhất để vô hiệu hóa karma, chữa lại sai lầm về tâm trí và tình cảm, cùng làm hòa nhịp tất cả các thể. Ai cũng có thể tự chữa cho mình nếu nâng tâm thức vào cảnh giới cao, đem xuống ánh sáng cùng sức mạnh của nó và biểu lộ trong đời sống hằng ngày.

5. Bệnh Tật trong các Thể thanh và Thể xác.

Bệnh ung thư trên hết thẩy là bệnh sinh ra do lạm dụng quyền năng, và là bệnh mà ai thuộc cung một dễ mắc phải. Ý chí bị lạm dụng, được dùng để làm chủ và sử dụng lực cùng tinh linh cho mục đích riêng, thay vì dùng để nâng cao con người và thúc đẩy cuộc tiến hóa của cá nhân. Luật thiên nhiên không thể được vi phạm nói rằng nơi đâu mà bức màn che kín cõi vô hình được vén lên, hiểu biết và quyền năng lộ ra và thụ đắc phải được dùng làm thăng tiến cuộc tiến hóa.
Mọi sử dụng sai lầm, mọi lạm dụng các tác nhân huyền bí vô hình tạo karma cho ai làm vậy, khiến họ thành nạn nhân của chính những tác nhân mà họ sai khiến. Karma tác động chính yếu từ bên trong con người, như lực của luồng hỏa xà Kundalini khi bị lạm dụng sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho hệ thần kinh não bộ và xương sống. Nói chung, tất cả những bệnh về xương sống và xương sống dị dạng đều có thể truy từ việc sử dụng sai lầm luồng hỏa xà. Như vậy một nguyên tắc nói rằng việc lạm dụng tác nhân bên ngoài cho karma là bị các thực thể xâm lăng, tấn công và gây tổn thương, còn việc lạm dụng các lực thiên nhiên trong con người sẽ ảnh hưởng họ từ bên trong.
Khi sử dụng năng lực tình cảm, có cảm xúc quá độ mà không phải do huyền thuật, nó có khuynh hướng ảnh hưởng màng nhầy lót các ống trong cơ thể, sinh ra bệnh cho các màng này. Thể tình cảm tự nó thì bị thương, nhiễm độc, sinh ra bệnh cho thể xác. Bệnh sinh ra do việc dùng trí năng sai lầm sẽ tác động não bộ và xương sống, đặc biệt hơn nữa là những cơ quan về tri thức.
Mỗi phần của cơ thể có tương ứng với một nguyên lý thanh (tình cảm, trí). Việc lạm dụng nguyên lý hay năng lực, khả năng của nó cho tác động lên cơ quan tương ứng trong xác thân. Diễn biến này chỉ có thể được thấu hiểu hoàn toàn sau khi ta nghiên cứu về giai đoạn trước khi sinh, lúc các thể đang được tạo hình. Tất cả những khiếm khuyết về sau và bệnh tiềm ẩn phát sinh từ giai đoạn này của tiến trình nhập thế.
Ung thư bắt đầu vào mỗi lần tái sinh, qua việc có thay đổi trong thể trí ngay từ những ngày đầu trong bụng mẹ. Cái trí bị ảnh hưởng rõ ràng, vì một phần chất liệu tạo nên nó được lấy từ khối chung có mức rung động của ung thư từ trước; chuyện xẩy ra do chất liệu đã được dùng trong thể trí của ai phạm lỗi mà kết quả là ung thư. Một phần của thể tình cảm cũng bị nhiễm theo cùng cách thức, và có mức rung động của ung thư đặt để vào nó do tiếp xúc trực tiếp với những thể khác có bệnh khi trước, gây ra bệnh do karma cho thể này. Tương tự vậy, vật chất dùng để tạo thân xác mới đã có lần có rung động của bệnh ung thư do hành vi quá độ trong quá khứ.
Dù ở trong những điều kiện có hại như vậy, làn rung động tiềm ẩn của quá khứ không nhất thiết phải gây bệnh. Nhiều người trên đời sống trong những điều kiện này mà không có triệu chứng bị ung thư. Kiếp này rồi kiếp kia họ có cơ hội làm karma vô hiệu, và trừ tuyệt  chất liệu trong các thể của mình. Chỉ sau khi việc này có thất bại nhiều lần, bệnh tiềm ẩn mới khởi sự hiện ra trong ba thể.
Những bệnh kinh niên nặng của nhân loại cũng diễn tiến giống vậy. Việc dễ mắc bệnh luôn luôn có đó, sau khi con người có hành động sinh ra karma gây bệnh; tính dễ cảm thụ này có thể truy được trong chất liệu, ở cả các thể thanh và thể xác, với mầm bệnh cho thể sau thường được thấy trong máu.
Qua những hiểu biết nêu trên, ta thấy rõ giai đoạn tiềm ẩn là lúc có thể cho ra kết quả tốt đẹp nhất, thế nên gợi ý rõ ràng được đưa ra là mọi trẻ thơ nên được chữa trị càng nhiều càng tốt các bệnh tiềm ẩn. Để làm vậy cần có kỹ thuật  hầu khám phá bệnh càng sớm càng hay sau khi sinh, và biện pháp để loại trừ bệnh. Có thể thông nhãn là phương pháp lý tưởng để làm những thử nghiệm cần thiết, nhưng từ các dụng cụ đang có ta có thể chế ra vật mới, cho phép y khoa tìm ra bệnh tiềm ẩn trong năm đầu đời.

 

Geoffrey Hodson -1929.

New Light on Disease.