VỊ  CHÂN  SƯ Quyển III The Initiate in the Dark Cycle

 

(Xem Vị Chân Sư từ số đầu tiên trong mục Sách Dịch)

David quay ra với chiếc cặp quí giá của anh, và chúng tôi đi tới một vòm cây ở phần dưới thấp của khu vườn, nơi sẽ không bị quấy nhiễu.
– Cõi ether, anh đọc, là chiếc cầu nối giữa vật chất cõi trần đậm đặc và cõi tình cảm; nó có bốn cảnh thấu nhập xuyên vào nhau, và cảnh thứ tư hay đậm đặc nhất là cảnh nằm gần cõi trần nhất.

1. Chất ether cõi thứ tư, người sinh hoạt ở cảnh này là những ai bị kích thích bởi lòng thèm khát sắc dục, tham vọng và ham muốn quyền lực dưới mọi hình thức.

2. Ether cảnh thứ ba, ai đã kiểm soát được những lực vừa nói.

3. Nơi cảnh thứ hai là người đang tiến vào đường Đạo, họ sẽ làm việc chung trong một nhóm huyền bí để tạo nên các hình thức hoạt động nhóm cao hơn. Nếu điều này thành công, người bạn có thể được nhận làm đệ tử Chân sư, và được cho phần việc riêng để thực hiện. Đó là trình tự phát triển theo kiểu xưa trong quá khứ, và được duy trì chặt chẽ. Khi người ta tìm cách làm khác đi, như sử dụng ether cảnh thứ hai trước khi có được khả năng tự mình điều khiển và theo sát, thì nó thường dẫn tới việc tạo ra tinh linh nhóm đáng sợ, sẽ đầu độc trọn nhóm từng người một, và chỉ có thể bị hủy diệt bằng cách giải tán chính cái nhóm ấy ...
– A, nay tôi hiểu vì sao thầy J.M.H. giải tán nhóm của ngài, tôi dằn không được nên lên tiếng cắt ngang, Xin lỗi nghe, đọc tiếp đi.
– Việc làm chủ được ether cảnh thứ hai có thể khiến người ta hợp tác với Chân sư theo đường hướng riêng ấy.

4. Còn khi làm việc được ở cảnh ether thứ nhất, người ta trở thành nhà huyền bí gia thực thụ, đóng vai trò như là đường lực trực tiếp cho cõi trần. Trọn những cảnh này có chất liệu của cõi tình cảm, thượng trí và hạ trí thấu nhập bên trong theo chiều đo thứ tư. Nói về làn rung dộng của những cảnh ấy, khoan, tôi phải xếp đặt lại cho mạch lạc, anh đột ngột ngưng làm ngạc nhiên, trước khi có thể trưng ra cho công chúng.
– Anh thiệt là cứ lấp lửng trêu chọc ! Viola kêu lên. Giống như chuyện Tàu vậy: Đón coi hồi hai sẽ rõ !

Đó là buổi sáng chủ nhật thật đẹp trời, ba chúng tôi leo lên đồi và ngồi xuống cạnh hồ nước. Từ cánh đồng bên dưới vẳng lên tiếng chuông thánh đường xa xôi, dìu dặt trong gió nhẹ; và lưng trời có con chim khuyên hót tới lui chỉ có một điệu mà thật rộn ràng tươi tắn.
– Vị Thiên thần thân hữu đang bay lượn trên đồi như thường lệ, David mở lời sau một lát im lặng dài.
– Tôi nghĩ vậy, Viola bảo, hiếm khi tôi cảm được bầu không khí tuyệt vời như thế này.
– Các bạn thường gặp những Thiên thần Quốc gia ở các nơi khoảng khoát bao la như thế này, David tiếp tục nói, tôi đã thấy và nghe các ngài trò chuyện với nhau bằng những lóe sáng có mầu sắc xinh đẹp, và âm thanh; mà không cách chi diễn tả lại bằng lời ... Bực quá đi thôi, anh đột ngột kêu lên sau khi ngưng một chốc, mấy người khác xen vô làm hư hết công chuyện !

Một nhóm người đi picnic xuất hiện ở chân đồi đi lên, cười nói rất là thô lỗ.
– Anh nghĩ coi Thiên thần có để ý tới họ không ? nhà tôi hỏi khi nhóm người tiến lại gần.
– Tôi nghĩ các ngài không quan tâm đến loại người như vầy đâu; họ trần tục và thấp kém quá !
– Sao, còn tụi mình thì như thế nào ? Tôi chọc ghẹo.
– Ngài sẽ biết đến người như hai ông bà ngay, đừng lo, vì ngài cảm nhận là anh chị quí chuộng mỹ lệ. Tôi thường để ý thấy là Thiên thần có đáp ứng với ai có cảm xúc đích thực về nghệ thuật. Làm như hào quang của ngài nở lớn và sáng rực lên, như thể hân hoan với lòng quí chuộng ta tuôn rải đến mọi cảnh chung quanh.
– Mà này, tôi thắc mắc, khi ấy giọng trò chuyện ồn ào của nhóm người đã đi ra xa làm chúng tôi nhẹ nhõm, Thiên thần có thu nhận học trò không, giống như Chân sư có đệ tử ?
– Không phải Thiên thần loại này, vì các ngài bị giới hạn vào trung tâm mà ngài canh giữ. Rồi anh nói tiếp cho chúng tôi hay, là dù vậy một vài loại Thiên Tiên Air Devas cao cấp đôi khi ảnh hưởng, gợi hứng cho nhạc sĩ và thi sĩ. Các ngài còn tạo dây liên lạc với những người này, chuẩn bị cho họ có các chứng đạo theo đường thiên thần. Các chứng đạo này khác hẳn với chứng đạo của con người, và chỉ có thể xem như là nghi thức cho ứng viên mong ước chuyển sang đường tiến hóa thiên thần trong một kiếp tương lai.
'Lấy thí dụ, cả nhạc sư Wagner (Đức) và thi sĩ Swinburne (Anh) được Thiên thần ảnh hưởng, anh cho chúng tôi hay, và thiên thần của nhạc sư Wagner vẫn còn giúp để duy trì truyền thống Wagner, bằng cách gợi hứng cho ai chơi nhạc của đại nhạc sư ấy. Không cần phải nói, Thiên thần loại này không bị giới hạn chỉ vào một quốc gia nào ...
David châm điếu thuốc và phà khói, yên lặng một lúc lâu, mơ màng nhìn khói thuốc xanh tan loãng trong không.
– Tôi nghĩ anh gọi các vị ấy là Thiên thần Quốc tế so với các Thiên thần Quốc gia ... Tôi nhận xét.
– Hẳn rồi. công việc của các ngài là liên kết nhiều nước khác nhau, không phải chỉ bằng âm nhạc, nghệ thuật và văn chương, mà còn bằng chính trị càng nhiều càng tốt. Các Thiên thần Quốc tế này đang nỗ lực cùng với các Chân sư để mang lại sự hợp tác giữa các nước. Giống ai có thông nhãn thấy được Thiên thần âm thanh chủ trì một buổi hòa nhạc quan trọng, thì cũng có Thiên thần Quốc tế chủ trì tại những cuộc hội nghị chính trị quan trọng.
'Trước hết, các ngài làm việc để khiến có hội nghị được tổ chức, rồi khi ấy các ngài ảnh hưởng họ để tìm cách duy trì sự hòa hợp và đạt tới mục tiêu mong muốn. Quí chân nhân sẽ thích thú khi biết rằng Thiên thần và các Chân sư hợp lực với nhau để phối hợp các đặc tính tốt đẹp nhất của người Mỹ và người Anh, nhằm tạo cái nhân cho giống dân tương lai.
'Người Mỹ có trực giác nhậy hơn và có tinh thần cởi mở hơn với các cõi cao so với những sắc dân khác, tuy nhiên họ không có sự ổn định của người Anh. Khi hòa hợp hai sắc dân, kết quả cho ra một loại người thanh bai hơn, dịu dàng hơn, loại người mà từng bước một sẽ có thể làm chủ được ether của cõi trần như mình đã nói, và học cách làm việc có ý thức với các Chân sư và Thiên thần trong những thế kỷ tới đây.
– Nói ngắn gọn, tôi tóm tắt lại, các Thiên thần là những thực thể rất quan trọng, và nhân loại càng biết sớm về các ngài chừng nào thì càng tốt chừng ấy, phải không ?
Anh gật đầu.
– Tôi sẽ nói nhiều về điểm ấy trong cuốn sách của tôi.
Có thêm nhiều người tới sườn đồi.
– Chu mẹt ơi, coi kìa, má – đẹp hết xẩy hông ? Còn mút đằng kia là giống gì ?
– Chờ chút, con, má muốn đứt hơi luôn, để má thở cái, mèn ơi ...
Một bà to lớn đang vất vả theo chân con.
Chúng tôi cảm thấy tiếp tục ngồi đây sẽ không vui.
– Tôi muốn đi một vòng, Viola bảo David, tụi này muốn tìm nhà để mướn cho mùa hè.

– Để tôi đi với hai ông bà, anh kêu to, vụt đứng dậy, có một căn nhà dễ thương trong làng, cách đây chừng gần cây số.
...

Chiều chủ nhật.
Những người đi chơi cuối tuần đã rời hết nơi đây trở về nhà. Vầng thái dương đỏ hồng đang dần chìm khuất sau cánh đồng xa kia. Mọi vật tĩnh lặng. Chúng tôi tìm được chỗ ngồi ở bìa rừng, từ đây có thể nhìn thấy đồng ruộng mênh mông bên dưới, có mầu tím nhạt của trời chiều. Những chiếc lá non tiết ra hương ngọt ngào, và làn khói từ lò sưởi mới đốt, phát ra từ ngôi nhà ở gần đây, gợi một mùi nhang trầm.
David đang có tâm tình lặng lẽ, mê mải trầm tư. Sau một lúc lâu anh nói.
– Có một Thiên thần âm nhạc của Chân sư K.H. ở đây ... Tôi nghĩ đó là vị ảnh hưởng bà bạn Chris của hai bạn trong lúc bà còn sinh thời ...
Có một khoảng lặng thinh nữa, mà trong lúc đó tôi có thể thấy David hết sức chăm chú lắng nghe. Rồi anh bảo.
– Thiên thần cho tôi thấy một hình ảnh bằng mầu sắc và âm thanh - nhưng làm sao nói cho các bạn hiểu ... ?
– Cứ thử đi, Viola nài nỉ.
Anh không trả lời ngay; và cuối cùng khi lên tiếng, giọng nói làm như thể anh đang lắng nghe điều gì hết sức xa xôi:
– Ngày và đêm Chân sư K.H. lắng nghe tiếng than khóc vang lên từ nỗi lòng của nhân loại đau khổ  ... Giống như sóng tràn, nó dâng lên rồi dâng lên nữa ... Làm sao Ngài đáp lại nó ? ... Ngài sẽ gửi một Sứ giả sẵn lòng, công việc của họ không phải thực hiện bằng lời mà bằng âm thanh ... Âm thanh chữa lành vết thương do sự xung đột và chỏi nhau của chữ nói ... Âm thanh mang lại Tình thương và Niềm Vui và sự Bình An cho một thế giới đen tối ...Âm thanh sẽ hòa lẫn một cách tế nhị, nhẹ nhàng với những lực thiên thần đang cố gắng mang lại hòa bình giữa các nước ... Nhu cầu lớn lao của thế giới sẽ được tương xứng với quyền năng rộng lớn của Sứ giả đó ...
– Chris .. ! cả hai chúng tôi đồng thanh buột miệng kêu to, gần như là bất ngờ.
Nhưng David không nói gì thêm; anh chỉ mỉm cười và tiếp tục nhìn ngắm ra xa.

 

Chương XVI

Hai Chân Sư ở Hi Mã Lạp Sơn.

 

Một mùa hè dài nhiều mưa không giống mùa hè chút nào đã trôi qua; nhưng chẳng phải là không có gì xẩy ra, chúng tôi thuê được ngôi nhà mà David đã tìm giúp, và đã nghe được nhiều điều lạ lùng, thích thú ở chỗ ấy, trong lúc anh bạn thu thập nhiều tài liệu khác nhau cho quyển sách của anh.
Tháng chín đem lại nhiều ngày ấm áp, đẹp đẽ với ánh nắng mặt trời, nhưng chúng tôi tiếc rẻ phải quay trở về London, mang theo David cùng với mình.
Không có tin gì từ thầy J.M.H. và tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng 'thời gian không định rõ' không chừng sẽ kéo thành nhiều năm, khi ấy có thư đến kèm lời chỉ dẫn cho Herbert và tôi đến thăm Ngài vào tuần sau.
Chiếc xe hơi xanh dương đón chúng tôi ở sân ga; và trên đường đi, chúng tôi không khỏi thử đoán mình sẽ gặp chuyện gì.
Xe vừa mới vào cổng, chúng tôi kinh ngạc thấy Toni Bland. Xe ngừng lại cho anh lên.
– Thánh thần ơi ! chúng tôi kêu lên, anh ...
Anh mỉm cười.
– Tôi đoán hai anh cho là tôi đã mất tăm hơi luôn rồi.
–  Coi nào, tôi gọi số của anh và được trả lời là không ai biết anh ở đâu ...
– Coi anh sung sức tươi vui quá. Herbert nhận xét. Khác xa với lần cuối tụi này gặp anh.
– A, từ đó tới nay có nhiều chuyện xẩy ra lắm, Toni đáp.
Nhưng khi ấy xe đã tới cửa trước.
– Thầy Haig đang ở tại hồ sen, ông quản gia già có cung cách xưa cho chúng tôi hay khi ông đỡ lấy túi hành lý của chúng tôi. Ngài yêu cầu tôi mời quí ông ra đó gặp Ngài khi quí ông đến. Nếu không biết lối, ông Bland có thể đưa hai ông đi ...
–  Đi nào, Toni nháy mắt bảo.

Thầy J.M.H. không còn vẻ mệt nhọc một chút mà tôi để ý thấy lần cuối gặp Ngài.
– Chào các con, ngài nói, tiến lại đưa cho chúng tôi mỗi người một tay của ngài. Hẳn các con ngạc nhiên khi gặp Toni ?
Ngài đặt tay lên vai anh và nhìn anh một cách hiền từ.
– Chà, chà, các con sẽ còn có thêm ngạc nhiên nữa ...
Toni đi ra và chúng tôi ngồi cạnh thầy J.M.H. trên ghế đá hình vòng cung nhìn ra hồ.
– Các con có tin gì cho Thầy ? ngài hỏi; và lập tức trí tôi nhớ đến bà Saxton. Tôi cho ngài hay bà đã qua đời, nhưng có cảm tưởng mình chỉ nói lên điều mà ngài đã biết.
– Con có gửi thầy một ý cầu cứu trước khi bà ra đi, tôi nói, Thầy có nhận được không ?
Ngài lắc đầu.
– Lúc ấy ta đang chìm đắm trong cơn thiền định.
– Nhưng con có cảm tưởng chắc chắn là có một Chân Sư đã tới với bà !
– Tất cả các Chân Sư đều là một trong cõi tinh thần, và một tư tưởng không vị kỷ hướng tới Thiên Đoàn sẽ không hề bị gạt bỏ. Chân sư K.H. là vị đáp lại lời thỉnh cầu của con. Về sau ngài cho ta hay như thế.
Và tôi cảm nhận với lòng biết ơn là cảm tưởng của mình là đúng thực. Nhưng tôi nói to.
– Bà có hạnh phúc không ?
– Bà có hạnh phúc tương ứng với quả tim chỉ có ít tình thương, nhưng hạnh phúc hơn là nếu bà qua đời mà không được hướng dẫn và chăm sóc, và trong trạng thái hoài nghi trước đây bà chìm đắm trong đó.
Ngài quay sang Herbert.
– Con đã viết những bài mà ta đề nghị rồi chứ ?
– Vâng, con đã viết.
– Chúng ta quyết định rằng nói cho cùng quyển sách sẽ có ích hơn; và ta dự tính cho con thêm chi tiết trong lúc con ở đây.
Vẻ mặt của Lyall cho thấy anh phấn khởi ra sao. Đột nhiên tôi nhớ đến lá thư trong túi áo.
– Nói chuyện sách vở, tôi thưa với Thầy J. M.H., có một lá thư liên quan đến Thầy. Người viết thấy ngay là không có lòng tự cao tự đại. Thư mới đến sáng nay, con đưa thầy xem hay thôi ?
Ngài mỉm cười và đưa tay ra.

– 'Tôi đã xem tới lui bộ sách The Initiate của ông, thầy J.M.H. đọc to, tôi sững sờ, đầy lòng biết ơn, và hân hoan được biết là các vị Yogi cao cả không những hiện hữu trong quê mẹ của tôi, mà  minh triết của chúng tôi còn lan sang Âu châu và Hoa Kỳ. Tôi thầm mong được ngồi dưới chân vị Yogi cao cả, nhưng đau khổ thấy mình còn thiếu nhiều điều kiện khó nhọc, thành ra e sợ là sẽ bị ngài Yogi nói trên khoát tay xua ra, nếu bạo dạn xin làm đệ tử. Những tác phẩm của ông giá chỉ vài đồng, mà cho an ủi xứng đáng vạn lần như thế cho linh hồn nào chìm sâu trong đau khổ. Xin kính dâng một biển tạ ơn đến Chân sư J.M.H., về lời trấn an qua con người chân tình của ông, đối với ý niệm là từ bỏ việc chăn gối trong hôn nhân không phải là đòi hỏi đầu tiên trong cuộc sống tinh thần. Giáo sĩ nơi tôi ở thì đoan quyết ngược lại. Tôi rất nhiệt thành mà cũng rất cần cù chịu khó.
Tái bút. Mong ước được làm đệ tử của vị Chân Sư này trong kiếp mai sau'.

Ngài đưa trả lại thư cho tôi với nụ cười hóm hỉnh, và nói.
– Con sẽ không thể hồi đáp lại thư này.
– Ô, sao thế ạ ?
– Con không để ý là thư không có địa chỉ người viết sao ?
Lạ thiệt, tôi không để ý xem điều ấy.
– Con chắc người này quên.
– Con lầm rồi; ông thật sự khiêm nhường nên trong lòng không mong có hồi đáp. Con còn nhớ câu chuyện dụ ngôn về người giả hình Pharisee trong kinh thánh ?
– ... Xin Thượng đế rủ lòng thương tôi là người có tội ... Tôi trích một câu trong đó.
– Người này thực sự là một thí dụ về bài học mà dụ ngôn muốn nói ... Còn bây giờ, ngài nói tiếp, có một chuyện quan trọng ta muốn nói với cả hai con. Thầy sắp đi ở ẩn một thời gian. Thầy sẽ vào lục địa Âu châu, đến một nơi vắng vẻ trên núi cao, và dành phần lớn thời gian để tham thiền ở đó.
'Thầy sẽ mang một đệ tử với mình để canh giữ thân xác trong lúc tham thiền, và chỉ có một đệ tử thôi, vì công việc làm với nhóm đã chấm dứt. Về sau việc làm có tiếp tục hay không thì còn tùy vào nhiều điều. Dù rằng các Đấng Cao Cả đặt ra một kế hoạch tổng quát cho nhân loại, ta cần nhớ rằng không ai là người máy, và ngay cả các Chân sư hay Thiên thần cũng không thể biết trước nhân loại trên địa cầu sẽ phản ứng ra sao với các chi tiết của Thiên cơ. Con đường chính có thể được xẻ núi mà thành, nhưng lữ khách có thể đi chậm rãi ngừng đó đây, hoặc bị cản trở trên bước đường do muôn vàn chuyện mà không ai biết trước, ngoại trừ các Thần Nhân Quả.
'Dharma (thiên trách) của thầy là hợp tác với các Chân sư để đối phó với các vấn đề sẽ tràn ngập trong những năm cuối của chu kỳ đen tối này. Muốn làm được vậy cần phải có một thay đổi trong sự phát triển của riêng ta, vì thầy phải học cách tiếp xúc với những cõi ether vũ trụ cao hơn, và học mối liên hệ của chúng với địa cầu vào lúc này. Điều ấy chỉ có thể làm được trong chỗ cô tịch lặng lẽ hoàn toàn, và trong trạng thái nhập định Samadhi một thời gian lâu.

Có một lúc yên lặng. Tôi thấy buồn và biết là Lyall cũng cảm xúc giống vậy.
– Vậy là chúng con sắp mất Guru của mình. Cuối cùng tôi nói.
Ngài mỉm cười một cách thương mến.
– Không phải mất, ngài nói. Con quên rằng mối dây liên kết giữa chela và Guru là cái mạnh nhất trong mọi mối dây ư ?
– Nhưng ngay cả tư tưởng của chúng con xem ra không đến được thầy khi thầy ở trong sự nhập định sâu như thế ...
Tôi nghĩ đến lời cầu cứu S.O.S. của mình trong chuyện bà Saxton.
– Đúng rồi, và còn hết tất cả những người đã đọc và biết yêu quí thầy qua sách của bạn con thì sao ? Lyall thưa và liếc mắt về phía tôi.
– Không phải thầy có nói là mỗi một tư tưởng nào hướng tới một Vị trong Thiên đoàn thì chắc chắn sẽ được hồi đáp ư ? Giọng nói ngài hết sức nhẹ nhàng. Để thầy cho hai con hay một điều mà có lẽ các con không biết. Có những người trên đường Đạo nghĩ rằng mình là đệ tử của vị Chân sư này, trong khi thực ra họ là đệ tử của một Vị khác. Họ lại còn được chuyển từ Chân sư này sang Chân sư kia mà không hề hay biết khi thức tỉnh dưới trần.
'Anh bạn của con đây được cho viết sách không phải để quảng cáo cho riêng thầy - tuy thầy e ngại ấy là kết quả - mà nói chung là để cho công chúng biết về sự hiện hữu của các Chân sư; và điều này không phải là để làm lợi cho các Ngài, mà để cho các đệ tử và những ai có thể được nhận làm đệ tử.
'Chớ bao giờ quên rằng hết tất cả Chân Sư đều là Một ... Các Ngài là những vị Phụng Sự cao cả của nhân loại. Người đệ tử không chọn vị Chân sư nào đó vì thấy mình có sự quí mến riêng đối với Ngài - mà chính ra thì vị Chân sư chọn học trò của mình vì một số tính chất mà người sau có thể có, và có thể được huấn luyện theo đường riêng của Ngài và tỏ ra hữu ích trong việc phụng sự nhân loại.

Có một lúc im lặng nữa, trong khoảng thời gian đó hai chúng tôi suy ngẫm về điều ngài vừa dạy. Chót hết, Lyall thưa, nói rất đỗi thật thà làm thầy J.M.H. phải phì cười.
– Con phải nói, nghĩ thì lạ quá là có ai ngồi tham thiền suốt cả ngày ... !
– Con không ý thức rằng tham thiền loại ấy là sự an lạc vô kể - là sự an lạc khi thể chất ngơi nghỉ cộng thêm với sinh hoạt mạnh mẽ ở cõi cao.
– Vậy con chắc là tụi con phải hân hoan ... Lyall thì thầm.
– Vâng, con chắc là chúng con phải hân hoan .... tôi họa theo.
Ngài đáp lại bằng cách bóp chặt bàn tay của chúng tôi.
– Hãy khoan, thầy nói, con nghĩ rằng thầy cho mời hai con ra đây là chỉ để làm các con buồn rầu vì phải nói lời từ biệt hay sao ... ?
...

Ngài Thomas, thầy J.M.H., Lyall và tôi ngồi ở thư viện sau bữa tối. 
– Các Chân sư đang gặp điều khó nghĩ, vị lão sư lên tiếng, nói với tôi. Các bậc Huấn Sư có ích gì khi không có ai để chỉ dạy ? Người Phụng Sự có ích gì khi không có ai để phụng sự ? Về những điều ấy con có thể giúp được.
Tôi hết sức kinh ngạc, và tự hỏi mình có thể làm được chi.
– Viết cuốn sách thứ ba, ngài nói tiếp theo cách nói gọn ghẽ của mình. Không phải chúng ta đã cho con dữ kiện ư ? Anh bạn chiêm tinh gia của con cũng đã cho con tài liệu. Con đã có quan sát riêng của mình. Hãy ghi chúng xuống.
– Nhưng liệu con có khả năng làm được chuyện hay không ?
– Chậc, chậc, chậc, chúng ta sẽ lo về mặt ấy ...
Ngài quay sang Lyall.
– Còn con, ngài nói, con sẽ soạn một loại âm nhạc mới - cũng như là viết một cuốn sách về đề tài này - con sẽ được chính tay một Chân sư huấn luyện chuẩn bị đặc biệt để làm việc đó. Cần phải có thị giác ở cõi ether để soạn loại âm nhạc mới này. Điều chính yếu là giá trị của một số hợp âm các nốt, và ảnh hưởng của chúng đối với thính giả, các nhà soạn nhạc phải ý thức trọn vẹn điều ấy trước khi nhạc mới được đưa ra.
Mặt Lyall sáng rỡ lên.

– Âm nhạc là một lực rất quan trọng trong cuộc tiến hóa. Ngài Thomas tiếp tục. Âm nhạc xấu - đạo đức xấu. Âm nhạc xưa - ý tưởng cũ xưa và thiếu tiến bộ. Lấy thí dụ, nhạc nhà thờ ngày nay là gì ? Ngài lắc đầu. Là những ca khúc coi thường óc thông minh về âm nhạc, vậy mà được cho là làm vui lòng Thượng đế. Thánh ca loại Gregorian - chà, chà, êm dịu mà kỳ quặc; và không cho tác động gì lên hào quang của thế hệ ngày nay. Nó không hề được dụng ý cho thế kỷ hai mươi. Phải cần một điều khác.
Ngài mỉm cười hiền lành và quay đi để chúng tôi ngồi lại.
– Hãy đến Thanh Phòng ngày mai lúc 10 giờ, ngài nói thêm lúc đi ra.
– Thầy có nghĩ Ngài Thomas muốn con chuyên về nhạc nhà thờ trong tương lai ? Lyall hỏi có chút dè dặt.
Thầy J.M.H. cười lớn.
– Không, không, ta có thể nói chắc là con có thể viết một ít nhạc nhà thờ trong số nhiều chuyện khác, nhưng ngài Thomas chỉ ám chỉ tới nó vì nhạc nhà thờ đặc biệt đi thụt lui so với thời đại.

 Ngài tiếp tục và giảng rằng gần đây các Chân sư có nỗ lực nhằm kích thích sự sự chú ý về nghi lễ huyền bí, bằng cách đưa điều bị cho lầm là âm nhạc thích hợp, nhưng người trung bình biết suy nghĩ ngày nay trong thế giới bên ngoài tỏ ra có hiểu biết nhiều, và nó không làm lợi mấy cho họ, còn những ai ở trong phong trào này thì vướng mắc sâu đậm với ẩn ức và vấn đề riêng của mình.
Đường từ lực bị nhiễm với tính tôn thờ cá nhân, và nhạc ấy đáng lẽ làm cho nghi thức có giá trị hơn, lại quá lỗi thời và không sinh ra kết quả mong ước. Thế nên tổ chức được nhiều kỳ vọng - bởi không có lòng thiếu khoan dung, tin tưởng mù quáng, óc bè phái - chót hết lại là thất bại. Giới trí thức gồm những người có thể gia nhập tổ chức thì không muốn, còn người bình dân thì đã có được những gì họ muốn từ các cộng đồng tôn giáo đang sẵn có rồi.
– Tổ chức cởi mở hơn này, thầy tiếp tục, lúc nguyên thủy có dụng ý là để chống lại làn sóng hoài nghi mà một số Chân sư thấy trước là sẽ tấn công tầng lớp có văn hóa hơn. Người sùng tín thấy cần có một tôn giáo, nhưng nếu họ vừa có phần trí và vừa có lòng sùng tín thì hình thức thông thường bên ngoài của Thiên Chúa giáo không làm họ được thỏa mãn. Kết cục là hàng người không có giờ hoặc ưa thích học hỏi để so sánh tôn giáo, huyền học hay huyền bí học, bị ở trong tâm trạng hoài nghi - hoài nghi sự hiện hữu của những quyền lực cao hơn, hoài nghi về đời sống sau khi chết, v.v.
'Cố nhiên đây không phải là một tội, nhưng nó có khuynh hướng làm thể thượng trí, và những quan năng tinh thần như hai con đã biết, bị còi cọc, có thể dẫn đến tình trạng vô tri thức kéo dài ở những cõi bên kia sau khi qua đời. Nói khác đi, sự hoài nghi dựng nên bức tường bao quanh những thể thanh, và cản trở sự tự do của chúng. Nếu con cột chân tay lại và giới hạn sự tự do của nó trong một lúc lâu, chi này sẽ teo nhỏ dần. Thế thì sao. Giáo hội mới này không có được đáp ứng đầy đủ, nay chúng ta phải kêu gọi tới nghệ thuật và nhất là âm nhạc để trợ giúp chúng ta.
'Điều chi mà nay nghi lễ không còn khả năng làm được, thì một hình thức mới của âm nhạc không chừng, và chúng ta tin, sẽ làm được; và nó sẽ là sứ mạng của con cũng như của những nhà soạn nhạc về sau, là mang âm nhạc này xuống cõi trần.
– Sẽ có một loại âm nhạc mới ! Lyall reo lên mừng rỡ, chuyện đó thật là hay. Con luôn luôn sợ là mình bị lỗi thời. Nghe nhạc của những nhà soạn nhạc cổ lỗ sĩ làm con chán ngấy.
Chúng tôi cười phá lên.
...

Herbert và tôi sẽ quay về nhà vào hôm sau, và tôi đặc biệt rầu rĩ khi phải nói lời từ biệt thầy J.M.H. Từ nhỏ tôi đã thấy việc chia tay thật là đau khổ, và bao năm tháng lớn lên vẫn không làm chuyện bớt đau lòng đối với tôi. Có lẽ vì thầy J.M.H. nhận biết điều này, nên khi chào tôi đi ngủ tối hôm ấy, ngài nói.
– Vì mai là ngày chia tay, đừng nghĩ rằng con sẽ không bao giờ còn gặp lại được ta ...
Ngài đặt tay lên cánh tay tôi một lúc, mỉm cười và đi mất.
Ngài không có mặt ở bàn ăn sáng vào hôm sau, và tôi tự hỏi lý do, nhưng sau đó Toni Bland cho tôi hay rằng ngài đã dùng bữa trước đó rồi trong phòng riêng.
– Anh có đi về với chúng tôi không ? Tôi hỏi Toni.
– Không, anh đáp.
– Con người may mắn ...  Nhưng tôi hy vọng là chúng tôi sẽ sớm được gặp anh, phải không ?
Anh lắc đâu.
– Tôi sẽ ra ngoại quốc nữa, và phải lâu lắm mới về nước trở lại. Mấy anh thiệt là bạn tốt đối với tôi, anh nói khi chúng tôi bắt đầu đi men theo lối đi ngoài vườn, và tôi tiếc là phải rời hai anh nhưng ...
Anh không nói được hết câu, vì đúng lúc ấy Ngài Thomas tới, theo khúc quanh lối trong vườn với chú chó đi cạnh.
– Nào, ngài bảo, nhìn đồng hồ và nói với tôi, sắp đến mười giờ rồi.
Đột nhiên Toni chộp lấy bàn tay của tôi, bóp lấy nó, mà không nói gì. Tôi thắc mắc không biết tại sao trong lúc rảo chân đi theo Ngài Thomas. Phải nó có nghĩa là tôi sắp trả qua một thử thách nào đó và anh muốn chúc tôi may mắn – hay chuyện gì khác ? Tôi vẫn chưa quên là Ngài Thomas yêu cầu chúng tôi đến Thanh Phòng lúc mười giờ, nhưng đồng hồ tôi có hơi chậm một chút.

Chúng tôi thấy thầy J.M.H. và Lyall đang chờ chúng tôi trong hành lang dài. Ngài Thomas gật đầu chào hai người, mỉm cười, tiến đến mở khóa cửa gian phòng bí ẩn đó, và kêu chúng tôi bước vào. Có bốn chiếc ghế xếp theo hình vòng cung đối mặt với cửa sổ có kính mầu xinh đẹp, qua đó những tia sáng mầu vàng và tím chiếu xuống soi sáng mặt chúng tôi. Ngài Thomas và thầy J.M.H. ngồi hai chiếc ghế giữa, và hai chúng tôi lấy hai ghế ngoài.
Có một lúc yên lặng dài. Rồi Ngài Thomas lấy ngón tay chạm vào giữa trán tôi một lúc.
– Hãy lắng nghe ... ngài nói.
Từ xa tôi nghe khúc nhạc trên phong cầm hòa với  lời ca thanh thoát, lâng lâng đến mức tưởng như nghe ban nhạc trời hòa ca, vẳng đến trong làn gió nhẹ êm ái buổi chiều. Nhạc không giống như bất cứ loại nhạc nào tôi đã nghe trước đây; nó thanh nhã mà du dương, ngọt ngào và không có chút tình cảm ủy mị; khi thì mạnh mẽ gợi nên lòng tôn kính, khi khác êm dịu, nhẹ nhàng tựa như bàn tay thiên thần vuốt ve.
– Huynh Koot Hoomi của ta chơi đàn phong cầm của Ngài ... còn giọng hát mà hai con lắng nghe là của chư thiên ... Hãy lắng nghe kỹ và ghi nhớ, vì ngày kia con sẽ soạn cho thế giới loại âm nhạc ấy ...
Ngài Thomas nói với Lyall. Nhạc tiếp tục một lúc rồi tàn dần và có một lúc yên lặng khác.
– Hãy nhắm mắt lại, và nhìn bằng nhãn quan bên trong.
Đột nhiên tôi cảm được một hương thơm ngào ngạt như có nhiều loại hoa tỏa ra, hình dạng hai đấng Cao Cả xuất hiện với mầu sắc mờ ảo, có nét thanh tú nhất và diễm lệ nhất. Khi ấy tôi nhận biết là mình đang nhìn vào Chân Sư Koot Hoomi - Vị đã nói chuyện với tôi qua Chris - và cùng với Ngài là vị Chân sư Tây Tạng, đức D.K.
– Xin chào chư Huynh Đệ, Ngài Thomas nói nhẹ nhàng và gương mặt đức K.H., giống mặt đức Chúa, nở nụ cười sáng rỡ thật dịu dàng không sao tả được, nó giống như là tinh túy của những lời mà ngài nói với Chris hồi xưa:
Tình thương mà Ta cảm thấy cho mỗi con là tình thương của Thượng Đế ...
Vị Chân sư Tây Tạng cũng mỉm cười, và gương mặt Mông Cổ của ngài tràn ngập nét thương yêu của tình phụ tử, gợi nên trong tôi một cảm xúc hiến dâng mãnh liệt. Giọng nói của thầy J.M.H. rất êm nhẹ phá vỡ sự yên lặng.
– Quí  Huynh Đệ và quí Chân Sư, ngài nói, tôi xin giao vào tay chư huynh các chelas yêu quí của tôi, hai anh đã làm việc cho tôi rất đắc lực. Mong sao hai anh tỏ ra xứng đáng với sự dẫn dắt, che chở và tình thương của các ngài.
Chân Sư Koot Hoomi giang đôi tay của Ngài trong cử chỉ chào mừng đầy thương mến, và trong mắt ngài lộ sự nhận biết như muốn nói 'Chúng ta đã nói chuyện với nhau trước đây rồi phải không ?' Rồi đôi môi của Ngài mấp máy và tôi như nghe Ngài nói:
– Bao năm về trước tại Hy Lạp khi ta là Pythagoras, hai con đã là đệ tử của ta, và nay ta chào mừng các con trở lại với ta nữa. Hai con mong muốn phụng sự nhân loại sẽ được cho khả năng lớn lao nhất để phụng sự - con, với ngòi bút của mình, và con - ngài quay sang Lyall - với âm nhạc của con.
'Chúng ta sẽ mang trở lại cho thế giới hoang mang và đau khổ vài phương pháp cổ xưa chữa lành kẻ bệnh; và một trong những cách này là bằng âm thanh của nhạc. Con người sẽ được dạy là ai muốn chữa lành phần thân xác trọng trược hữu hình, phải trước tiên chữa lành thể sinh lực (thể phách) là thể họ chưa thấy được.
'Để đạt tới mục đích chúng ta cần những ai có thể phụng sự chúng ta theo những khả năng khác nhau của họ. Nhu cầu của chúng ta rất to lớn trong thời đen tối và hoài nghi này, vì những ai từng sẵn lòng phụng sự, nay không làm việc với chúng ta nữa, và ai có thể muốn phụng sự và nhờ vậy có được niềm vui của việc làm, đã quay đi mất hút trong cảnh ảm đạm.

Và rồi linh ảnh bắt đầu phai mờ. Tôi cảm thấy là hai vị Chân Sư vẫn còn đó, nhưng tôi không còn khả năng thấy được nữa. Tôi làm cử động không tự ý là đưa tay về hướng Ngài Thomas, mong ngài sẽ chạm vào trán tôi lần nữa để cho phép tôi lại được nhìn thấy, nhưng ngài ra dấu là làm vậy không nên. Khi ấy thầy J.M.H. lên tiếng, đầu tiên nói với Lyall và sau đó với tôi.
– Chân sư Koot Hoomi nói rằng vị Huynh Đệ của Ngài, Chân sư D.K., sẽ chuẩn bị các thể thanh của con để nhận được hứng khởi mà Ngài sẽ đích thân cho con về sau; và vài Chân sư sẽ giúp con viết quyển sách mà Ngài Thomas đã nói chuyện với con, theo lời yêu cầu của các Ngài.
Ngài ngưng lại một chút.
– 'Tuy ta có thể đi ở ẩn, nhưng không ai đã thương mến và trở thành có liên kết với ta do tư tưởng của họ, sẽ bị bỏ rơi không người hướng dẫn'. Chân sư Koot Hoomi dang tay và nói: 'Hãy để họ đến với chúng ta, họ sẽ nhận được tùy theo nhu cầu và theo ước nguyện phụng sự chúng ta' ... Ngài ban phép lành cho hai con ...
Chúng tôi ngồi yên lặng vài phút, xong Ngài Thomas và thầy J.M.H. đứng lên rời khỏi ghế.
– Hãy ngồi lại lặng thinh thêm một chốc, và sau đó ra hồ sen. Ngài Thomas nói.
Thực vậy, chúng tôi hân hoan với lời dặn này vì trong phòng còn vấn vương bầu không khí an lạc và thương yêu đến nỗi tôi không muốn rời nó, cho dù để ra vườn yên tĩnh êm đềm của Ngài Thomas. Hơn thế nữa, trọn tâm thức tôi tràn ngập nỗi ngây ngất tinh thần mới mẻ và kỳ diệu quá làm tôi gần như sợ không dám cử động, kẻo nó biến mất khỏi con người tôi và biệt tích luôn, không bao giờ có lại nữa.

Chúng tôi lặng lẽ ngồi ngắm hồ sen trong một chốc, và rồi ngạc nhiên thấy Ngài Thomas đi tới, và ngồi xuống bên cạnh chúng tôi.
– Từ biệt ... ngài nói, không có mấy ai trong chúng ta thích nó, và đa số chúng ta có thể không cần tới nó, vậy tại sao không tránh ? Tuy nhiên, với ai đã hòa hợp với vạn vật, và ý thức được Đại Ngã thì không có chuyện biệt ly. Chà ... một ngày kia, các con sẽ có được ý thức ấy. Còn bây giờ, chậc, chậc, ông lão bị giao cho việc báo tin ...
Thầy J.M.H. đã tránh cho chúng tôi việc khó mở lời chào từ biệt, và đã ra đi, mang theo với ngài chỉ một đệ tử là Toni Bland.

Hết quyển ba The Initiate in the Dark Cycle.
(còn tiếp)