1001CHUYỆN
Bài 19
– Em đang coi chuyện Medium, người nổi gai ốc, lát nữa đi ngủ Bo đừng tắt đèn !
– Vậy thì đừng coi.
– Nhưng mà hấp dẫn lắm. Chuyện nói là người đồng tiếp xúc được với cư dân ở cõi vô hình, mình tin được không ?
– Không nói chắc được mà phải xét từng trường hợp riêng rẽ. Có một thí dụ cho cưng biết để thấy là trong vài trường hợp, sự việc không giống như người ta tưởng. Có một nhóm bên Anh cũng tìm hiểu về chuyện này, gồm 15 thành viên có trình độ cao gồm kỹ sư, công chức, kiến trúc sư, bác sĩ, và nhiều người chuyên nghiệp khác, nam cũng như nữ. Họ thật tâm muốn học hỏi và tổ chức cuộc thí nghiệm theo điều kiện khoa học.
Trong nhóm có một người có thông nhãn (clairvoyance), cô nhận ra một điều làm người trong nhóm thấy lạ lùng, ấy là hào quang của bất cứ nhóm nào cũng dễ bị tư tưởng mạnh mẽ của người trong nhóm chi phối. Cô chứng minh bằng cách tiên đoán chuyện gì sẽ xẩy ra trong buổi tối có cuộc họp.
Nhóm chỉ thuần túy nghiên cứu, muốn biết nguyên tắc và cơ chế của hiện tượng siêu hình. Cô tình cờ khám phá là khi chán nghe lời mô tả vô thưởng vô phạt của người đồng không có gì thú vị, cô có thể làm cho có chuyện xẩy ra bằng cách nghĩ ra nó. Thí dụ cô chú tâm vào một người trong nhóm và tưởng tượng có sự việc đặc biệt liên kết với họ, như có ai lớn tuổi qua đời với hình dạng khác thường.
Người đồng gần như lập tức nói là có 'tin - message', thuật lại y tư tưởng mà cô tạo nên. Mới đầu cô dè dặt vạch ra điều này cho một kỹ sư hay, và sau đó cho những thành viên khác của nhóm. Họ thảo luận với nhau rồi làm thử những thí nghiệm đơn giản, và thấy rằng chuyện diễn ra trong buổi cầu hồn bị ảnh hưởng của tư tưởng trong nhóm phát ra, lẫn của ai ở ngoài nhóm gửi tới.
Người đồng hoàn toàn không biết gì về điều này, và thoạt tiên thành viên của nhóm cũng nghi ngờ nhưng một buổi tối trước khi có họp, cô cho người kỹ sư hay là tối ấy sẽ có vị hôn thê của anh – hoàn toàn tưởng tượng vì anh chưa hề có ai như thế - đến thăm.
Quả thực vậy, trong buổi tối người đồng gọi anh, có một cô gái nói chuyện qua họ, rằng cô vẫn ở cùng anh lúc chết cũng như lúc sống, rằng cô vẫn thương yêu anh và theo phù hộ anh, chăm lo cho anh từ cõi bên kia, nghĩa là những điều hay nghe trong bất cứ buổi cầu hồn nào. Dần dần, nhóm thấy rõ là một tư tưởng mạnh mẽ phát ra sẽ cho kết quả tương xứng, họ nản quá nên nhóm quyết định không làm thí nghiệm nữa. Điều không cần phải nói là tư tưởng phóng ra không phải vì có ác ý hay muốn chọc phá người đồng, mà chỉ nhằm việc xem xét, kiểm chứng. Cưng muốn nghe nữa thôi ?
– Kể tiếp đi, nửa đêm cần dậy thì em sẽ kêu Bo !
– Chuyện khác là có người đi cầu hồn, được người đồng thuật nhiều điều về hai người đàn ông, tên họ và những đặc điểm nói trúng bóc. Người đồng kể ra tiểu sử của hai người, sau đó đưa ra nhiều lời chỉ dẫn của họ. Người dự mới hỏi đó có phải là những người đã qua đời, người đồng đáp:
- Ồ, đúng rồi, họ đã bỏ xác một thời gian và rất nóng lòng muốn được tiếp xúc với bà.
Sự thực thì một trong hai người đàn ông này là người ngồi cạnh bà trong bữa tiệc tối hôm trước, có nghĩa ông còn sống sờ sờ, và lời nhắn mà bà đồng mang về 'từ cõi bên kia' là tóm tắt cuộc chuyện vãn hai người nói tối qua. 'Ông' kia là nhân vật chính (tưởng tượng) trong cuốn chuyện dự định sẽ viết mà bà nghiền ngẫm từ mấy tuần nay.
Chuyện chót là năm 1940, vào lúc nước Pháp đầu hàng Đức, có nhóm người ở London tụ họp bàn tán về việc nghiên cứu hiện tượng siêu hình. Một ký giả trẻ tuổi trong nhóm đột nhiên hóa nửa mơ nửa tỉnh, thuật cho cả nhóm hay rằng anh thấy hình ảnh đông đảo quân Đức đi trên đường phố London, còn anh thì đứng trên nóc một cao ốc ở đường Fleet; nhưng cuối cùng thì họ sẽ bị đánh bại khỏi nước Anh, và Anh sẽ chiến thắng. Anh tiếp tục nói theo cách ấy vài phút rồi đột nhiên ngưng bặt, làm như tỉnh dậy và nhóm bàn luận trở lại.
Lịch sử cho thấy viễn ảnh này sai lầm, nhưng vào lúc đó nước Anh rúng động sợ hãi, lo lắng sẽ có việc xâm lăng, và cả Anh lẫn Đức đều tưởng tượng việc có thể xẩy ra như thế nào. Thanh niên dễ cảm này do nghề nghiệp có óc tưởng tượng dồi dào, đã bị ảnh hưởng của trí não mình lẫn tâm thức quần chúng, và trong lúc anh mơ màng, các tư tưởng này hiện ra như là huyễn ảnh, không liên can gì đến chuyện đã xẩy ra hoặc sẽ xẩy ra.
Cả ba thí dụ cho thấy có người đồng không phân biệt được hình tư tưởng và người thật. Người đồng nhiều phần là thuật lại tư tưởng và ký ức, là những phần nằm trong tiềm thức của người dự. Ta biết rằng bất cứ điều gì xẩy ra như tư tưởng, tình cảm, sự kiện đều lưu lại dấu vết trong trí thì rõ ràng là cái trí sẽ chứa đựng hình ảnh của ai đã qua đời, cùng chồng chất bao nhiêu điều về lời ăn tiếng nói, điệu bộ, có liên kết với họ.
Ai đi cầu hồn hẳn đã nghĩ nhiều về người quá vãng và do đó, làm những ký ức này trồi lên mặt, cho dù họ có thể cẩn thận ngăn cho mình không nghĩ tới chúng. Điều họ ít để ý là hiểu biết ấy nằm trong tiềm thức, và người đồng có thể mô tả hình ảnh thân nhân hoàn toàn xác thực, cùng nói rằng họ mang về tin từ thân nhân.
Người đồng có thể thật lòng tin rằng người chết có hiện diện nơi ấy muốn liên lạc với người dự, và người đồng tiếp xúc được với người này, nhưng không có gì chứng minh là người đồng có trực tiếp gặp gỡ họ. Rất có thể người đồng đã cảm được hình tư tưởng trong trí của người dự, và đồng hóa mình với chúng. Sự đồng hóa này mạnh tới mức khả năng kịch hóa của họ đã cho phép họ đóng vai trò của người qua đời, và bắt chước y hệt.
– Bây giờ có rất nhiều sách xuất bản về thể loại này, về đời sống bên kia cửa tử, và lại có chương trình truyền hình về người đồng giúp cảnh sát tìm tội phạm, ý nghĩa của những việc đó là sao ?
– Luôn luôn sẽ có việc tìm hiểu điều bí ẩn của cuộc sống, và đời sống sau khi chết là một bí ẩn lớn từ xưa đến nay; cũng như luôn luôn có người có khả năng tâm linh như thông nhãn, thông nhĩ (clairvoyance, clairaudience) và thấy được nhiều việc siêu hình. Những điều họ quan sát thấy là hiện tượng ở cõi trung giới, cõi tâm linh sát ngay cõi trần. Hiện tượng đó có thể là huyễn hoặc mà cũng có thể là chuyện thật, tuy nhiên dù là thế nào đi nữa cưng nên phân biệt giữa hiện tượng và triết lý, cùng ghi nhớ điều thiết yếu sau. Ấy là đằng sau hiện tượng có triết lý, hay luật, chi phối hiện tượng, và điều cưng cần nhắm tới là có sự hiểu biết triết lý, rành rẽ những luật quản trị sự Sống, hơn là say mê đọc hết hiện tượng này đến hiện tượng kia.
– Triết lý khô khan quá, không có tình tiết ly kỳ, còn người đồng thuật chuyện của người bên cõi trung giới nghe lý thú hơn nhiều. Khác biệt giữa hiện tượng và triết lý là sao, và tại sao nên học hỏi triết lý mà dè dặt với sách vở về đồng cốt ?
– Triết lý đưa cưng đến sự giác ngộ và giải thoát, tức là vòng xoắn ốc dẫn cưng đi lên cao, từ cụ thể đến trừu tượng, hữu hình đến vô hình, vật chất sang tinh thần thiêng liêng. Hiện tượng thì đi theo vòng tròn và may ra thì nó không dẫn cưng đi xuống chứ ít khi đi lên; cưng sẽ mê say những điều không quan trọng, mà càng theo đuổi thì càng đi sâu vào vật chất và mắc kẹt trong đó, thay vì ý thức được cõi cao và có minh triết. Một trong những lợi ích của việc học hỏi MTTL hay triết lý là nhờ đó người ta biết được luật Tiến Hóa, và xếp đặt cuộc sống của mình cho phù hợp với luật. Hiểu được điều ấy là hiểu được giá trị to tát dường nào của MTTL, vì từ trước đến nay chưa có triết lý nào giải thích luật tiến hóa cặn kẽ như MTTL đưa ra.
Khi thực hành triết lý đó thì cưng càng ngày càng tinh thần hóa cuộc sống và con người của mình, sống trong cuộc sống thật nhiều hơn. Ngược lại khi mê mải với hiện tượng dù cao đẹp, đầy ý nghĩa nó cũng vẫn chỉ là hiện tượng, khiến cưng bị mất nhiều thì giờ trong cõi vật chất và do đó chậm bước trên đường tinh thần.
Trong những số báo PST có nhiều ý niệm được đưa ra nên hôm nay có lẽ chuyện cần làm là nối kết chúng để nắm được ý chính. Ta đọc được rằng :
● Các Chân sư chỉ làm việc từ cõi trí trở lên (PST 58, bài Vị Chân Sư)
● Cõi trí không có hiện tượng (PST 56, bài Tâm Thức Học 2)
● Đích nhắm của mẫu chủng thứ 5 hay Aryan là phát triển và làm chủ trí năng, và đích cho chi chủng thứ 6 của mẫu chủng thứ 5 là mở trực giác.
Như vậy công việc hiện nay cho con người là hiểu và làm chủ tình cảm, và hướng đến trí năng, trực giác thay vì đắm chìm vào hiện tượng nơi cõi trung giới. Cưng để ý thấy có hai luật tác dụng đồng đều ở mọi chặng đường tiến hóa:
● Một luật nói rằng muốn tiến lên cao thì người ta phải bỏ qua, quên đi chuyện thấp; và
● Luật thứ hai là cái lớn bao trùm cái nhỏ, cái cao chứa đựng cái thấp, và tinh luyện con người là phải từ trong đi ra.
Để giải thích thì cưng thấy luật áp dụng ngay trong cuộc sống nơi cõi trần, muốn thành người lớn thì cưng phải bỏ qua những cách xử sự trẻ con. La hét, ăn vạ, bắt nạt như trẻ con làm có thể mang lại kết quả trong việc giao tiếp giữa người lớn với nhau, nhưng cách đó không bền mà còn gây hại cho mối tương giao, và nếu tiếp tục thì về lâu về dài sẽ mang lại rắc rối hơn là cho kết quả mong ước. Thành ra muốn sự giao tiếp có kết quả, bắt buộc cưng phải quên đi phản ứng trẻ con mà học cách đối đãi của người lớn. Khả năng dậm chân la lối vẫn có đó, nhưng nay cưng không làm nữa vì đã quên nó rồi, đã hiểu biết nhiều hơn. Kế tiếp, thành người lớn không nhất thiết là cưng quên đi chú bé hay cô bé trong lòng, mà nếu muốn thì cưng vẫn hiểu được cảm xúc, tâm tình của trẻ nhỏ, trong khi khó có chuyện ngược lại.
Tương tự vậy, một số người đã có những quyền năng thấp như thông nhãn, thông nhĩ khi xưa trong mẫu chủng thứ tư, nay tái sinh vào thời đại này, muốn có phát triển cao hơn thì họ cần phải quên – hay tạm thời mất đi chúng. Đây là chuyện khó làm cho một số người, vì quyền năng ấy mang lại nhiều điều lợi cho cái ngã, như có lợi lộc tài chính, được nổi tiếng. Nhìn rộng ra, ai trong chúng ta cũng đã qua giai đoạn cầm thú, có những khả năng của thú tính như đánh hơi giỏi, nghe được siêu âm. Khi làm người, ta mất đi chúng nhưng ngược lại có những tiềm năng khác cao hơn tức trí năng của ta, mà khi được phát triển thì hữu hiệu bội lần so với loài thú. Kế tiếp, hiện tượng là hệ quả còn triết lý giải thích nguyên nhân, con người được thúc giục đi vào cõi nguyên nhân, tìm hiểu nguyên nhân hơn là chìm đắm trong hệ quả.
Vì vậy, không nên bận tâm đến quyền năng như thông nhãn, thông nhĩ, hiện tượng cõi trung giới. Thay vào đó hãy chú mục vào chuyện học hỏi triết lý, và cố gắng linh hoạt ở cõi trí càng nhiều càng hay.
– Là như thế nào, làm sao làm việc ấy ?
– Quyền năng đáng ao ước là hiểu được người khác, mà không phải là thấy hay nghe chuyện vô hình. Tại sao ? Khi hiểu ai là cưng mở rộng tâm hồn của mình để bao trùm người kia; càng mở rộng chừng nào, càng đem vào tâm mình nhiều sinh linh chừng nào, cưng càng gần Sự Sống chừng ấy, mau trở thành là một với sự Sống; và Thượng đế hay tiến đến gần Thượng đế có nghĩa là gì, nếu không phải là sự Sống và trở thành sự Sống ấy ?
Ở mức thấp hơn, quyền năng hiểu được người khác này là thần giao cách cảm ở cõi trí, tức biết được sự việc trong trí, tự nhiên 'biết' mà không phải nhờ thấy (thông nhãn) hay nghe (thông nhĩ) ở cõi vô hình. Cưng để ý luật trên áp dụng, 'biết' hay 'cảm biết' là quyền năng cao sử dụng rung động ở mức cao, so với thông nhĩ và thông nhãn là quyền năng thấp dùng hiện tượng để cho biết.
Nói như thế không hàm ý là là không nên đọc chuyện siêu hình, chuyện người đồng tiếp xúc với cõi tâm linh, mà đúng ra là nhận biết giá trị thật của chúng. Sách báo, chương trình truyền hình về chuyện tâm linh, đồng cốt cho kết quả tốt đẹp là làm tăng ý thức dân gian về đời sống sau khi chết, về cõi trung giới, nhưng đó mới là chặng đầu và không nên ngừng ở đó, tệ hơn nữa là lạc trong rừng hiện tượng thật giả lẫn lộn, đi vòng vòng từ chuyện lý thú này sang chuyện lý thú khác, quá mê mải với chúng mà quên mục đích của ta là học để có hiểu biết, giác ngộ và giải thoát.
Trình tự này, đi từ hiện tượng sang triết lý, là tiến trình tự nhiên vì sau khi phát triển trí cụ thể (hiện tượng) thì chặng kế là trí trừu tượng (triết lý), và chặng xa hơn là trực giác. Nhìn sang chuyện khác cưng cũng thấy diễn biến tương tự, thí dụ như tham thiền. Lúc ban đầu mới học thiền, người ta tập thiền có đề tài như 12 đức hạnh cho 12 tháng, theo quyển 'Chân Lý Hằng Ngày'; về sau có mười thành công lực, ngồi xuống có thể thăng ngay thì lúc ấy tham thiền không cần đề tài. Tới mức đó cưng đã 'trở thành' Tình Thương, thí dụ vậy, cưng 'là' Tình Thương mà còn hơn thế nữa, vạn vật tan biến chỉ còn lại tâm thức, tâm thức cưng là tất cả và sống động vô kể, cưng cảm biết sự sống tràn đầy. Nói sơ như vậy để cưng biết vị trí của hiện tượng và không vướng mắc vào nó.
Bà Blavatsky có khả năng về chuyện siêu hình, tuy nhiên khi có người đau khổ vì con gái nhỏ qua đời và nghe tiếng của bà, mời HPB đến nhà với hy vọng nhờ bà liên lạc cùng con gái, giúp ông yên tâm là con vẫn còn đó, nhưng bà dứt khoát từ chối. Có nhiều lý do để bà làm vậy, một lý do mình vừa nói ở trên là chú trọng vào hiện tượng làm người ta quên đi mục đích của mình trong đời.
Hiểu biết này quan trọng hiện giờ vì có hai việc đang diễn ra song song, một là mẫu chủng thứ năm Aryan cần mở mang và phát triển trí tuệ, và hai là màn ngăn cách giữa những cảnh vật chất với cảnh giới ether và cõi trung giới ngày càng mỏng manh hơn, và con người sẽ dần dần ý thức những cảnh giới vô hình. Một dấu hiệu cho thấy việc đang diễn ra là sự kiện mình đã nói trong số PST 58, đó là ngày càng có nhiều trẻ sinh ra với thông nhãn hay thông nhĩ.
Trở lại vấn đề hiện tượng và triết lý, hay trí cụ thể và trí trừu tượng, khi chuyển trọng tâm từ điều này sang điều kia thì sự việc không khác gì hơn là áp dụng luật rung động. Trí cụ thể làm việc theo một nhịp rung động riêng, và khi ta suy nghĩ điều trừu tượng như triết lý thì cái trí lại rung động theo một nhịp khác nữa. Như vậy khi tham thiền có đề tài thí dụ là tập tánh hạnh, nó có nghĩa trong khoảng thời gian đó cưng cố gắng giữ cho các thể của mình rung động theo một nhịp rõ ràng. Khi hành trì siêng năng, đều đặn, nhịp rung động này trở thành thói quen và trở thành tự động, tức cưng đã thay làn rung động khi trước bằng làn rung động mới cao hơn; chuyện không có gì huyền bí mà chỉ là diễn ra theo luật.
Luật Rung Động giải thích được nhiều việc. Trong bài Con Đường của Người Đệ Tử số 58, ta đọc là khi mới được nhận vào Ashram, người đệ tử chỉ được dự ở vòng ngoài, dần dần anh mới tiến được vào vòng trong và sau đó tới gần vị Chân sư hơn. Lý do rất giản dị, ban đầu nhịp rung động của anh chưa hoàn toàn hòa hợp với nhịp của Ashram, nó có thể gây trở ngại cho công việc của Ashram là điều không thể để cho xẩy ra, vì thế anh được đặt ở vòng ngoài là chỗ để nếu anh gây hại thì hệ quả không lớn lao, không tới mức nguy hiểm cho sinh hoạt của Ashram. Khi nhịp rung động hòa hợp nhiều hơn, anh được tin cẩn hơn thì khi ấy anh có quyền can dự sâu hơn vào đời sống và công việc của Ashram.
Sự thanh khiết liên hệ chặt chẽ với làn rung động, cũng như đó là điều kiện tối cần khi sống Đạo. Chính vì lý do này mà nó được đề cập tới trước tiên trong bài Những Nấc Thang Vàng (Một đời sống trong sạch, một tinh thần cởi mở, một tâm hồn thanh khiết ...). Ta có hành động, tư tưởng, cảm xúc thì lòng thanh khiết cũng áp dụng cho cả thân xác, trí não và tình cảm. Vào lúc này, bởi con người phát triển tình cảm cao độ mà chưa làm chủ nó hoàn toàn, mục tiêu cho đa số người là có sự thanh khiết về thân xác và tình cảm để thoát khỏi ham muốn và sự kềm chế của tình cảm. Để được vậy thì cần tái định hướng lòng ham muốn luôn luôn, khiến cho chót hết tiến trình trở thành thói quen của trí não.
Mọi sự sống rung động và tạo ra hình, hoặc thô sơ hoặc tinh xảo và lòng thanh khiết chi phối hướng của hình (hoaëc ñoäng cô cuûa yù muoán). Khi sự sống thăng hoa dần thì làn rung động cũng thanh bai hơn, và sự thay đổi mức rung động này khiến hình cũ tan vỡ và hình mới được tạo. Nói khác đi sự rung động tạo hình mà cũng hủy hoại hình. Nhìn rộng ra, các thể là hình được tạo cho con người sử dụng trong một kiếp, dựa theo làn rung động đã đặt từ kiếp trước. Ai bước vào đường Đạo sẽ làm các thể được tân tạo luôn, và càng tiến xa thì anh càng hữu ý làm vậy; chính vì sự thay đổi này mà người ta hay đau ốm và bị nhiều xáo trộn lúc ban đầu.
Anh biết được luật, ý thức phải nâng làn rung động của mình, đặt kỷ luật cho cái trí, chuyển hóa tình cảm, có lối sống trong sạch và dùng thực phẩm tinh khiết. Cưng nhớ mình đi theo nguyên tắc từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài, nên phải bắt đầu với tâm trí và tình cảm, rồi tới việc kỷ luật và dinh dưỡng cho thân xác, thay vì đi từ ngoài vào và lo cho thân xác, lo đi gym mà bỏ quên hai thể cao hơn. Sau bẩy năm chuyên cần như vậy thì mình có được ba thể mới.
Đòi hỏi phải có trí năng phát triển còn vì lý do là không ai muốn phụng sự nhân loại có thể thực sự giúp ích, khi họ chưa thể hướng năng lực tư tưởng đích xác vào một công việc riêng biệt nào đó cho nhân loại. Đòi hỏi này cũng là lý do khiến phải tránh xa hiện tượng đồng cốt mê man, hiện tượng này hoàn toàn nằm trong cõi trung giới và có sự nguy hiểm. Tại sao ? vì khi ấy trí năng không can dự và linh hồn không nắm quyền kiểm soát. Người đồng thành dụng cụ không hữu thức, họ không làm chủ mà họ bị kiểm soát. Cũng thường khi, những vong linh sử dụng phương pháp này để tiếp xúc với người cõi trần, qua việc sử dụng não bộ hay bộ phận phát âm của người đồng, không phải là hàng tiến hóa cao, và không thể dùng những phương pháp ở cõi trí.
Chú trọng vào việc phát triển trí năng, vào triết lý còn có một dụng ý khác. Ấy là nơi một số người, do nhân quả sự cấu tạo những thể khiến cho họ dễ dàng tiếp xúc với cõi trung giới, mà đó là điều cần tránh, vì như đã nói mục tiêu của giai đoạn này là phát triển trí năng, chú trọng vào những hiện tượng nơi cõi trung giới khiến người ta đi sai đường. Dầu vậy, khi thông nhãn được nhìn nhận thì một điều lý thú có thể xẩy ra, ấy là nó sẽ xác nhận tình huynh đệ đại đồng là một sự thực và thúc đẩy con người phát triển điều ấy.
– Làm sao có được ?
– Do nhìn sự việc một cách khách quan hơn, nhìn con người tâm linh thì không còn phái tính, mầu da, mà chỉ thấy con người thật như họ là. Ta sẽ đi tới nhận thức là con người chỉ khác nhau về mức phát triển tinh thần, ngoài ra không có gì phân cách người này với người kia hay với các loài khác.
– Trong những buổi cầu hồn có tạo hiện tượng, khoa học và người hoài nghi cho là có sự giả mạo vì thường khi sự việc diễn ra trong cảnh mờ tối. Tại sao lại như vậy, tại sao không diễn ra nơi sáng sủa thanh thiên bạch nhật ?
– Hiện tượng có thể được làm ở chỗ sáng sủa, như bà Blavatsky đã từng làm nhiều lần, và theo sử sách thì đức Chúa hay các vị thánh nhân khác cũng đã làm. Khung cảnh mờ tối quả thật khiến dễ có giả mạo, hoặc giả mạo dễ hơn, nhưng cũng có một lý do khác khiến người đồng muốn như thế, có lẽ do công lực chưa thâm hậu ! Giả thuyết về ánh sáng cho rằng nó gồm những hạt năng lượng gọi là photon - quang tử, từ nguồn sáng tuôn tràn ra không gian thành từng dải, tức ánh sáng có chuyển động không ngừng và chuyển động ấy phá rối việc tạo hiện tượng, làm thực hiện nó khó hơn. Chuyện đồng cốt muốn có tạo hình trong cảnh mờ tối chỉ là để giảm thiểu chuyển động và được thành công hơn, mà không phải do có gì mờ ám, khuất lấp. Cưng biết nẫy giờ mình đang làm gì không ?
– Mình đang nói chuyện ma !
– Không phải, mình đang áp dụng nguyên tắc nói ban đầu, là muốn hiểu một sự việc nào thì phải nhìn từ trên cao xuống, mình đang dùng cái trí để hiểu chuyện ở cõi trung giới và cõi trần, thay vì quanh quẩn nơi cõi trung giới mà thôi; vì cái cao mới hiểu rõ cái thấp do chứa đựng được nó, và mới cho ra câu đáp thỏa đáng.
– Âm thanh trong khung cảnh sống đã thay đổi quá nhiều từ khi có cách mạng kỹ nghệ, rồi nhạc rock, nhạc jazz. Tai mình nghe biết bao âm thanh mới, từ việc bó buộc như phải nghe tiếng ồn khi làm việc, đến việc tự ý đắm mình trong âm thanh phát ra từ máy nghe nhạc gọn gàng như iPod. Những điều này có sinh ra hệ quả gì không ?
– Người ta có ghi nhận ý nghĩa của chuyện gì xẩy ra trên thế giới về mặt âm thanh từ thế kỷ 19 nhưng chưa hiểu rõ sự việc. Tiếng động và âm thanh mà trái đất phát ra ngày càng tăng, từ máy móc, việc chuyên chở diễn ra khắp nơi trên trái đất với xe vận tải, xe lửa, tầu thuyền, phi cơ, truyền thanh, truyền hình, đĩa, tất cả sinh ra ảnh hưởng cho cơ thể con người và mọi hình thể của sự sống ở khắp nơi. Điều này chỉ trở thành rõ ràng theo với thời gian. Vài hình thể thú vật, và nhất là hình thể thảo mộc, sẽ biến mất, do âm thanh tạo ra hình hài mà cũng hủy diệt nó.
Sách ghi là một công việc của đức Mahachohan hiện giờ có liên hệ đến âm thanh. Do sự quản trị sai lầm của người và việc phát triển không cân bằng, những âm thanh của trái đất như của các thành phố lớn, nhà máy, chiến tranh, đã sinh ra tình trạng tồi tệ mà các thiên thần phải làm việc trong đó. Điều này phải được chữa lại vì thế trong nền văn minh tương lai, nỗ lực sẽ được hướng tới việc chống đối các khu ổ chuột, và đẩy mạnh khuynh hướng về đồng quê, ra nơi khoảng khoát. Mặt khác, con người ngày càng nhậy cảm hơn nên sẽ tiến đến việc loại trừ tiếng động. Khi biết sử dụng thủy lực và nguyên tử lực, loại nhà máy hiện giờ, kỹ thuật hàng hải và chuyên chở như xe lửa, tầu thuyền sẽ được cách mạng hoàn toàn. Điều kiện mới sẽ tạo ảnh hưởng mạnh mẽ chẳng những cho người mà cho luôn cả hàng ngũ thiên thần.
Âm thanh và âm nhạc vì vậy có tác động tinh tế và mạnh mẽ cho con người về tâm lý và sự tiến hóa của họ, cũng như cho nền văn minh và sự tiến hóa của giống dân, địa cầu nói chung.
– Tối nay em sẽ lên Đà Lạt !
– Lên đó làm gì ?
– Có chuyện ngạc nhiên cho Bo, mà phải nhắm mắt lại.
– . . .
– Úm ba la, mở mắt được rồi. Bản đồ thành phố Đà Lạt đây, Bo thấy gì không ?
– Đường Thông Thiên Học ! Trên Đà Lạt có đường TTH ! Hay quá vậy, làm sao cưng tìm ra bản đồ này ?
– Bí mật Google ! Chắc không nước nào bảnh như VN, có đường TTH. Em đi ngủ đây, nhớ để đèn sáng ! Em sẽ lên Đà Lạt trước, chờ Bo ở góc An Dương Vương và TTH hỉ.
TIN TIN.
Tham khảo:
- A Treatise on White Magic, A.A.Bailey.
- This World and That, P. Payne and L. Bendit.
- Trang web đường TTH:
<http://maps.google.com.au/maps?hl=en&q=01+Ng%C3%B4+Quy%E1%BB%81n+Street+%E2%80%93+P.+6+%E2%80%93+%C4%90%C3%A0+L%E1%BA%A1t+%E2%80%93+L%C3%A2m+%C4%90%E1%BB%93ng&ie=UTF8&hq=&hnear=Ngo+Quyen,+Da+Lat,+Lam+Dong,+Vietnam&ll=11.954504,108.433321&spn=0.015261,0.01575&z=16>