ÁNH SÁNG LINH ĐIỆN

Ánh Sáng Linh Đin

Light in the Sanctuary  -  G. Hodson

 

 

Tác giả Geoffrey Hodson rất quen thuộc với hội viên TTH cũng như độc giả PST, với báo đã trích đăng nhiều bài của ông về thế giới thiên thần. Kể từ số này, PST xin gửi đến bạn đọc bản dịch quyển hồi ký của ông tên Light of the Sanctuary. Ông qua đời năm 1983 và theo lời dặn, sách được xuất bản năm 1988, nay xin để chính ông giới thiệu tác phẩm.
‘… Sách chứa đựng một số sự kiện huyền bí trong đời tôi, đã được ghi lại có hệ thống trong quyển Nhật Ký huyền bí của riêng tôi. Việc làm ấy là nhằm gợi hứng người khác học hỏi Thesophy, cũng như để giúp ai khác đang tìm và đi trên đường phát triển mau. Hệ quả sẽ có thể là sự đóng góp hữu hiệu vào công việc của hội chánh TTH tại Adyar, Chennai, Ấn Độ.
‘Những kinh nghiệm ngoài cõi trần của tôi thường được nhà tôi, Sandra Hodson, ghi lại ngay sau khi chúng xẩy ra, và dựa theo lời thuật lại của tôi về những việc này, bà cho ra lịch sử chính xác của chỉ một phần đời sống nội tâm của tôi. Nhiều sự kiện này đối với tôi hết sức riêng tư, thiêng liêng. Dầu vậy, tôi bằng lòng cho tiết lộ (chỉ) sau khi tôi qua đời để đoan chắc với người khác là nếu có động cơ chính đáng, tới phiên họ có thể tìm để tự chứng tỏ thực tại của chỉ dạy huyền bí và tinh thần của Theosophy.
‘Tôi khẳng định ở đây là trong suốt đời tôi và là hội viên sáu mươi sáu năm của hội TTH, vào lúc viết bài này 1979, tôi chưa hề nói là có hiểu biết trực tiếp và có liên lạc riêng với các Mahatma, ngoại trừ một số rất ít những cộng tác viên tích cực thân thiết. Nay sách ghi lại nhiều chuyện về mối liên hệ huyền bí và tinh thần đầy đặc ân như thế, và là một phần rất thật của đời sống hằng ngày của tôi. Chỉ một phần những kinh nghiệm này mới được chia sẻ trong sách. Động cơ khác của nhà tôi và tôi khi cho ra sách là để bảo đảm với hội viên hội TTH, rằng các Chân Sư Minh Triết vẫn còn quan tâm đến phong trào TTH được thành lập năm 1875 tại New York.
‘Nhiều năm trong đời, tôi nhận được trực tiếp, lúc hoàn toàn tỉnh thức, trí não hiểu rõ, ý tưởng và chỉ dạy của các Thành Viên trong Thiên Đoàn, lần sớm nhất là vào năm 1913 (ngày 10 tháng Ba, 1935) như ghi trong hồi ký này. Trong hai dịp việc xẩy ra ở cõi trần, một trong hai lần này Chân Sư xuất hiện rất rõ trước mắt, khiến tôi có thể phác họa sơ qua rất bất toàn chân dung của ngài, được kèm trong sách. Gần đây, thêm vào đó, Chân Sư Morya hiện ra với gương mặt ngài gần mặt tôi, đến mức tôi có thể thấy làn da xuyên qua râu sậm mầu của ngài…
‘… Tôi xác nhận là mỗi kinh nghiệm huyền bí được chia sẻ và ghi lại trong sách về đời sống nội tâm, thì chẳng những chân thật mà còn được mô tả chính xác tới hết mức có thể được của tôi. Mong sao những cống hiến này về linh ảnh bên trong được gợi hứng, kinh nghiệm, hiểu biết của tôi, và sự liên kết đầy đặc ân của tôi với thế giới thiên thần, sẽ đạt mục tiêu mà nhà tôi đã đặt ra khi soạn sách này, mô tả chỉ phần nào đời sống huyền bí của tôi.’
Và tiếp đây bà Sandra Hodson nói sơ qua về cách tiếp xúc giữa Chân Sư và ông Hodson.
‘… Khi trí ông bận rộn với việc làm của mình, Chân Sư đôi khi làm ông biết tới sự hiện diện của ngài bằng cách gửi một luồng năng lực mạnh quạt xuống một bên mặt ông. Cách này cũng được Chân Sư dùng khi ông có người khác với mình, và có nhu cầu cho ông hay về giải quyết của một vấn đề, hay lời khuyên cho người có mặt với ông, để họ không biết về Nhân vật vô hình, hay lời trợ giúp của ngài.
‘Ông sẽ đáp ứng ngay lập tức bằng cách bước vào trạng thái ông gọi là ‘tờ giấy trắng’, là tâm trí tỉnh thức cao độ, trí não tuyệt đối phẳng lặng, loại bỏ mọi thành kiến và tư tưởng của nó, để không có gì nhuộm mầu, biến đổi, hay làm xáo trộn sự thanh khiết của việc tiếp nhận ý niệm và ý nghĩa của nó khi liên lạc với vị Chân Sư. Tôi cũng biết là ông luôn giữ tâm trí mình trong trạng thái trống không này khi chuẩn bị cho việc nghiên cứu huyền bí, nhưng ta nên luôn nhớ rằng lúc nào ông cũng hoàn toàn tỉnh thức và làm chủ trọn vẹn mọi quan năng của mình, tức trạng thái thông nhãn chân thực.
‘Trong nhiều năm, ông ghi lại hay tả cho tôi ghi lại những kinh nghiệm lạ lùng, khi ông ra ngoài cơ thể trong lúc ngủ. Đây hoặc là những sự kiện xẩy ra ở cảnh cao, hay viễn ảnh, hay huấn thị do Chân Sư hay đại thiên thần gây ấn tượng cho ông. Ông nhớ lại với sự rõ ràng ở mức lạ lùng, và sáng hôm sau Chân Sư xác nhận hồi ức chính xác của ông. (Thí dụ, xem nhật ký ngày 22 tháng Bẩy, 1979.)
‘Ông giải thích là khi chết và khi ngủ, thể xác và thể sinh lực không hoạt động, mất tri thức. Chân nhân khi ấy có thể sinh hoạt ở cõi trung giới hay cõi trí, hay cả hai tùy theo mức tiến hóa, cách sống và sự luyện tập. Việc học hỏi TTH, tham thiền đều đặn, làm thúc đẩy sự phát triển các thể thanh, và làm tăng sự tự chủ cùng mức hữu hiệu trong việc di chuyển và hành động ở cõi cao.
‘Giấc mơ’ thực được kinh nghiệm nơi cõi trí, và hồi ức về nó được ghi lại không xóa nhòa vào tâm thức. Như vậy ‘giấc mơ’ nơi người tiến hóa cao như ông, là kinh nghiệm trong lúc thức tỉnh với đầy đủ tri thức, và khác hẳn ký ức rối loạn, rời rạc thường được gọi là ‘giấc mơ’, là chuyện hay xẩy ra ở cõi trung giới.
‘Sau khi ông qua đời, tôi quyết định thêm vào sách vài đoạn trong dó các Chân Sư Minh Triết tỏ lời cám ơn về những đóng góp của ông cho việc làm của các ngài. Tuy lòng khiêm nhường tự nhiên của ông sẽ ngăn không cho có việc xuất bản lời khen nào về ông, tự tôi thêm vài liên lạc cho thấy các vị Chân Sư cao cả rất quí chuộng ai làm việc quên mình và không mệt mỏi, cho việc quảng bá Theosophia.
‘Từ các hồi ức ban đầu của ông lúc tuổi thơ, kinh nghiệm về thiên thần, sự tiếp xúc và nhận huấn thị, cho đến những năm tuyệt vời khi ông là sứ giả của các Chân Sư Minh Triết, có một ánh sáng chiếu rọi đời ông và con Đường đã chọn, Ánh sáng trong Thánh điện của Thiên Đoàn. Ông là người mang ánh sáng ấy đến cho nhân loại và với nó, ý thức và hiểu biết về thực tại của những bậc siêu nhân ấy, các đấng toàn thiện, những Vị mà trong sự phát triển của chúng ta canh giữ, hướng dẫn, và gợi hứng cho chúng ta trên con đường trở về.
‘Mong sao ai đọc những trang tiếp theo có được hứng khởi và cảm nhận sâu xa là họ, khi tới phiên, sẽ phụng sự nhân loại và các đấng Cao Cả.’
(Trong suốt nhật ký có những câu như ‘Chân Sư nói’, hay ‘Chân Sư nói với tôi’, xin ghi rõ là ý tưởng không được thốt ra bằng lời nghe rõ, mà truyền ở cõi trí; ngoài ra có những đoạn chỉ ghi vắn tắt ‘Một Đạo Sư’, trong trường hợp ấy tên của ngài không được ghi lại, dù rằng ông Hodson luôn cảm biết ấy là vị Chân Sư nào.).

Về bản dịch này:
Mỗi chúng ta là con đẻ của thời đại mình sinh ra và sống trong đó, quan điểm và thái độ của ta bị nhuộm mầu theo tính chất, tâm tình của thời đại ấy, đó là chuyện không sao tránh được. Tác giả Geoffrey Hodson cũng vậy, ông là người Anh, sinh ra trong thời nữ hoàng Victoria rồi sau đó gia nhập Hội và làm việc từ thập niên 1920, cái nhìn của ông chịu ảnh hưởng những gì xẩy ra trong xã hội và trong hội lúc đó. Bởi vậy khi dịch sách này, ta sẽ lượt bỏ phần nào xét ra không còn thích hợp cho ngày nay, may mắn là các đoạn này rất ít, cũng như ta sẽ thêm chi tiết, giải thích ý nào quen thuộc với người tây phương mà xa lạ với độc giả Việt để làm rõ ý tác giả. Như mọi sách dịch trên PST, xin mời bạn đọc nguyên tác nếu được.
Sách dùng nhiều từ ngữ TTH, nếu chưa quen xin bạn tìm hiểu ý nghĩa trong mục Từ Điển TTH có trên trang web PST.

Người ta nhớ lại - phải, đặc biệt nhớ lại - những sự việc có ảnh hưởng sâu xa tới đời mình. Có vẻ như số mạng cho tôi kinh nghiệm nhiều việc như thế, và chúng bắt đầu lúc tôi rất nhỏ. Thực vậy, tôi chỉ mới năm hay sáu tuổi khi chuyện đầu tiên xẩy đến với tôi. Nó phần nào là một kinh nghiệm về giấc mơ sống động, vì tôi ở trong trạng thái nửa mơ nửa tình.  Có vẻ như từ bên trong chính mặt trời, một hình dạng vĩ đại như chim bằng lửa, với đuôi dài trông giống như đuôi chim lyre, bay xuống và đi vào người tôi xuyên qua đỉnh đầu, gần như tạo ra một quầng lửa chói lòa bên trong tôi.
Bởi còn quá nhỏ không thể chịu nổi sự viếng thăm thế ấy, tôi kinh hoảng thét lên. Luôn luôn trong trường hợp như vậy, mẹ vào dỗ dành tôi. Từ hồi còn rất nhỏ tôi hay bị khiếp sợ vì những gương mặt xấu xí, cười hay là nhăn nhó bên giường, và sự hiện diện thương yêu, khôn ngoan của mẹ luôn luôn đánh tan nỗi khiếp đảm và mang lại bình an.
Nay xin nhẩy một bước dài đến nhiều năm về sau, tôi có được điều mà tôi nghĩ là đôi chút hiểu biết về kinh nghiệm lạ lùng và bấn loạn tâm thần như thế. Lúc đó tôi đang sống với chủ nhân đồn điền trồng trà ở Sri Lanka, và thường đi lên núi cao để tham thiền. Trong một dịp như vậy, đột nhiên một vị Đại Thiên thần từ mặt trời hiện ra ở trên cao tuy gần với tôi. Lần này tôi không kinh hoảng mà đầy lòng ngưỡng mộ, tôi dám xem xét Vị chói lòa này, và thấy là mọi hình dạng, mầu sắc, và lực của cây gậy trong tay Hermes (hình hai con rắn quấn quanh một cây ở giữa gọi là caduceus) sống động và tuôn lên trên qua thân hình của nhân vật rồi đi vào đầu của ngài.
Chính nhân vật là một cây caduceus sống, được sinh ra do năng lực lửa mạnh mẽ, có vẻ như từ trái đất vươn tới mặt trời. Khi đó tôi ý thức là mình đang nhìn thấy một thiên thần mặt trời, một thiên thần Kundalini. Về sau, tôi viết bài mô tả nhân vật cao cả này, và  lâu về sau hơn nữa, cô Ethelwynne Quail, một họa sĩ rất khéo, vẽ hình ngài theo mô tả của tôi. Hình vẽ này được cho vào quyển The Kingdom of the GodsClairvoyant Investigations với tên A Kundalini Deva.
Bên cạnh một số kinh nghiệm có hơi lạ lùng, vài cái sẽ được tôi ghi lại trong sách này, tôi có một tuổi thơ hạnh phúc và trọn lành. Tôi sinh ngày 12 tháng Ba, 1886 trong gia đình điền chủ và nông gia ở Lincolnshire, Anh quốc. Nhà chúng tôi, căn nhà rộng kiểu Tudor với vườn bao quanh, nằm ở giữa một trang trại rồng hơn một ngàn mẫu ta (acre). Một phần khác của gia trang gọi là Candlesby Hall, nằm trên đồi mà dân làng gọi là đồi Wolds. Tôi gọi phần này là ‘nhà chính’, nơi ông bà tôi cư ngụ. Ký ức tôi có về nơi đây là chỗ êm đềm, xinh đẹp và vui vẻ - nói chung là một nơi tốt lành để bắt đầu một kiếp.
Ngoài nhà của các tá điền, hàng xóm gần nhất của chúng tôi cách xa nhà một đặm (1,6 km) và thị trấn gần nhất thì cách đó hơn sáu cây số. Gia đình nào ở chỗ như vậy phải tự mình lo công việc hằng ngày và lo cho hạnh phúc cùng sự an vui cho trẻ con đang lớn. Tôi có bốn anh chị em, nên luôn luôn có đủ dịp để có sinh hoạt bình thường trong đời sống gia đình.
Cha chúng tôi rất giỏi trong việc tạo ra điều thích thú và vui vẻ cho các con làm, và ông khiến mọi chuyện có tính mạo hiểm, phiêu lưu. Khi ba kêu chúng tôi đi ngủ, ông hay nói:
– Mai ta sẽ có trò vui !
Và chúng tôi luôn luôn có. Có ngựa để cỡi khi chúng tôi theo ba đi thăm đồng, có chó để chơi hay để dẫn đi theo chúng tôi trong những chặng đi bộ xa, có chim và thú vật nhỏ để tìm kiếm và ngắm nhìn, và trọn những sinh hoạt hào hứng khác có thể có trong một trang trại lớn và bận rộn.
Vài hồi ức vui vẻ nhất của tôi là về lễ Giáng sinh. Tất cả tá điền và hàng xóm gần nhất được mời đến nhà chúng tôi, và người giúp việc với những người làm vườn được xem như một gia đình và chia sẻ với chúng tôi cây Noel cùng những sinh hoạt vui vẻ trong phòng khách lớn của chúng tôi. Ba và mẹ đứng cạnh nhau với ba phát quà, và tất cả chúng tôi hân hoan trong niềm vui không thể tả được của ngày Giáng sinh, mà ai còn nhớ sẽ quí chuộng ký ức như thế.
Tâm trí tôi trở ngược về chuyện này vì đặc biệt là nhà chúng tôi tên Bethlem Farm (viết tắt của Bethlehem) trong giáo xứ Wainfleet St Mary. Nên tôi, về sau thành tín đồ Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo, có thể nói là “sinh ra ở Bethlehem”, và dưới tên của Đức Mẹ, và nó trở thành một điều được quí chuộng về ký ức của tôi. Nhà tôi, Sandra, và tôi thỉnh thoảng trở về chốn cũ thăm nhà, và tôi thấy tình yêu quí của tôi dành cho nơi đây vẫn còn mới mẻ và rất thật.
Giũa những hoạt động trong đời bình thường của một bé trai đang lớn, ngay từ lúc rất sớm sủa có một hiểu biết sáng chói ở nội tâm làm cuộc sống của tôi tươi sáng và đầy hứng khởi.  Nó là hồi ức mơ màng nhưng dù vậy sống động và thật đối với tôi. Ấy là niềm tin rằng ở đâu đó có một nhóm bí mật gồm các đấng Toàn thiện, với trụ sở ẩn kín mà từ đó các thành viên đi vào thế giới để giảng dạy và có hành động thể hiện lòng từ. Tôi biết là khi các ngài gặp nhau, các ngài  dùng một số dấu hiệu để đôi bên nhận biết nhau; và khi mệt mỏi trong việc mang minh triết đến cho con người,  thì các ngài có thể quay về trụ sở bí mật này để tĩnh dưỡng và bồi bổ lại.
Mãi về sau, nhờ học hỏi tài liệu TTH, tôi được biết là quả thật trên địa cầu có không phải chỉ một mà nhiều thánh địa được dùng như là trụ sở cho các nhóm những bậc Huấn sư Đạo đồ. Các ngài là tinh hoa của nhân loại chúng ta, những Vị đã được quyền theo đuổi cuộc tiến hóa riêng của mình, nhưng đã chọn ở lại và có tiếp xúc gần gũi với thế giới, hầu cho các ngài có thể giúp ai trong chúng ta chưa đạt tới mức cao cả ấy. Tôi có lý do để tin rằng đời tôi có nhiều lần được cứu thoát kỳ diệu, và tôi dám cho rằng Thành viên của tổ chức này đã làm việc ấy.
Có lẽ nên vạch ra ở đây là khi kể lại những chuyện đôi khi lạ lùng và khác thường xẩy ra cho tôi hồi nhỏ và khi lớn lên, tôi làm vậy theo sự hiểu biết riêng và diễn giải của mình, dùng trực giác có được. Tôi nói lên điều này để tránh làm chia trí bạn đọc về sau khi cần nhắc lại ý đó trong các diễn biến của chuyện. Tôi xin bạn đọc ghi nhớ điều này.
Thí dụ đầu tiên có hơi gay cấn về việc tôi được cứu thoát xẩy ra lúc tôi được bẩy hay tám tuổi, sau khi tôi xa nhà vì được cho vào nội trú tại trường ở Spilsby, cách Bethlem Farm khoảng 13 cây số. Đi xe đạp là thú vui giải trí ưa thích, và là kinh nghiệm hào hứng để khám phá miền quê. Một dịp như vậy, khi tôi đạp xe cách trường chừng năm cây số, tôi phải xuống một ngọn đồi rất dốc. Bánh của xe đạp hẳn phải vướng chi đó; sao đi nữa tôi bị té khỏi xe và có vẻ như bất tỉnh.
Tôi không nhớ gì cả cho đến khi tĩnh lại ở trường, với một bên mặt tôi bị đá sỏi làm trầy sát nặng nề. Không ai nói là đã tìm thấy và mang tôi về trường, và sau này việc học hỏi và kinh nghiệm làm tôi tin rằng một người cứu trợ vô hình đã làm việc ấy. Vài trường hợp khác sẽ được kể lại vào chỗ thích hợp trong chuyện của tôi.
Sau bốn năm nội trú ở trường tại Spilsy, tôi vào trường ở Hertfordshire, và nhiều kinh nghiệm khác thường xẩy đến cho tôi trong thời gian học ở đó. Những chuyện như thế không lạ lùng đối với tôi trong lúc tôi theo học nơi đây, cũng như là các kinh nghiệm thần bí. Tôi nhớ là khi đi lễ nhà thờ với mẹ, bà chơi phong cầm và là ca trưởng tại nhà thờ St Mary, Wain, tôi được học về sự hiện hữu của đức Jesus, và tôi cảm biết hay nghĩ là tôi biết, là mình sẽ được thấy ngài trước khi chết. Chuyện vẫn chưa xẩy ra (xin đọc ghi chú ngày 18 tháng Tám, 1977), nhưng ký ức luôn sống động trong tôi. Cũng vậy, vào lúc rất nhỏ khi có rước lễ lần đầu và ít nhất trong ba ngày sau đó, làm như tôi sống trong một bầu ánh sáng vàng óng. Kinh nghiệm ấy cũng vẫn còn với tôi.
Xin nói ra ngoài đề một chút là khi học tiếng Latin, tôi thường xuyên nghe nói về Rome. Nó làm tôi có hồi nhớ bất chợt về một kiếp đầu thai ở Rome, xẩy đến cho tôi một ngày nhiều năm về sau khi đến thăm nơi ấy. Tôi ngồi với bà chủ nhà nơi tôi ngụ bên trong điện Pantheon, ráng mở tâm hồn cho bất cứ hồi ức nào mà khung cảnh có thể gợi nhớ. Đột nhiên tôi thấy trọn khu vực bị cháy. Tôi kêu to về việc ấy, và rồi mô tả việc rất kỳ lạ đối với tôi.
– Họ có dụng cụ chữa lửa, vì nhiều người tới và tìm cách dập tắt ngọn lửa.
Bà chủ nhà về sau bảo tôi là khi đó bà nghĩ,
– Sai hẳn rồi ! Người La Mã không có gì gọi là dụng cụ chữa lửa.
Nhưng bà thắc mắc và quyết định tra cứu. Về sau bà cho tôi hay.
– Quả thật có cháy ở điện Pantheon, và người La mã có dụng cụ chữa lửa.
Trở lại chuyện kể những năm còn trẻ của tôi, và đặc biệt là tâm tình sùng đạo cùng niềm tin là một phần lớn trong đời tôi, hiển nhiên là tôi lớn lên thành tín đồ Thiên Chúa giáo, và nói chung là tin mà không thắc mắc điều chi. Tôi nghĩ nhiều về lời dạy của đạo nhưng đối với tôi, Kinh thánh tuyệt đối đúng, và mỗi chữ của nó phải được tin theo sát nghĩa đen. Tôi bị làm cho mở mắt một cách mạnh mẽ.
Lúc khoảng hai mươi bốn tuổi, tôi có được việc làm tại một thương nghiệp ở Liverpool, và tìm được chỗ trọ với một gia đình tại Canmere. Chỗ ở rất thoải mái và tôi quí mến người trong nhà. Ông bố, dầu vậy, là người vô thần hoàn toàn. Ông thấy tôi đi nhà thờ ngay ở bên kia đường với căn nhà, và quyết định đặt câu hỏi với tôi. Ngày nọ ông hỏi tôi.
– Geoffrey, anh tin có từng cặp thú vật lên thuyền của ông Noah trước khi có cơn hồng thủy à?
Tôi mạnh dạn đáp.
– Tự nhiên là tôi tin. Nó có trong Kinh thánh.
– Nào, ông nói, con cù lần ở nam Mỹ khi bò nhanh nhất thì đi được 1,6 km một ngày. Với tốc độ đó nó sẽ phải bắt đầu đi hai ngàn năm trước khi có cơn hồng thủy, để có đủ giờ tới và lên thuyền. Anh tin là có hai con như thế đến thuyền không ?
Điều này làm niềm tin của tôi lung lay đáng kể, và tôi không biết làm sao trả lời. Ông nói tiếp.
– Và anh có tin, thí dụ, là Joshua khiến mặt trời đứng lại để làm ngày dài hơn không ?
Lần này có lẽ bớt tự tin hơn, tôi đáp.
– Tôi tin chứ. Kinh thánh nói vậy.
– Này, Geoffrey, ông kiên nhẫn đáp, sự di chuyển của mặt trời chẳng can dự gì đến ngày dài ra sao. Đó là việc trái đất quay quanh trục của nó ấn định ngày dài ngắn. Coi coi, muốn làm ngày dài ra thì Joshua sẽ phải ngăn không cho trái đất quay, và rồi mỗi sinh vật, kể cả Joshua, sẽ vụt phóng về phía đông với tốc độ của ánh sáng, và sẽ chẳng còn ai để ghi sự kiện đó. Bây giờ anh tin gì ?
(còn tiếp)