CON ĐƯỜNG

Con Đường

 

 

Giới Thiệu
Thế giới ngày nay đang trải qua giai đoạn chuẩn bị và một khoảng ngưng giữa hai thời kỳ, để điều chỉnh theo tân kỷ nguyên và đường hướng mới sẽ tới. Thế giới tương lai ấy là một tạo tác mới mà trong giai đoạn chuẩn bị lúc này, các Chân Sư bận rộn với việc sắp sẵn người phụng sự cho việc có tính xây dựng. Chuyện diễn ra trên qui mô lớn do nhu cầu thế giới, và do sự sẵn lòng chấp nhận rủi ro của người chí nguyện về mặt cá nhân; và một phần của chuyện là tạo các nhóm mới làm việc chung. Như thế vấn đề chuẩn bị có hai mặt: cá nhân và nhóm, mà cho mỗi chúng ta, ta cũng phải xem xét sự việc theo hai mặt ấy, là sự rèn luyện cá nhân và sự tương tác trong nhóm, sao cho việc làm có hiệu quả.
Có vài luật rất giản dị làm nền tảng cho những chân lý mà ta đã chấp nhận là cần thiết cho sự tiến bộ tinh thần. Chúng là đòi hỏi đã được thuận theo và được thấy là có đó nơi ai thuộc một nhóm bí truyền.
● Việc cần cảm biết nhu cầu thế giới theo khả năng của mình, khi nó từ từ ló dạng. Điều cần nhớ trong trí là đòi hỏi cho ai vào lúc này hoạt động để mang lại thế giới mới, sẽ có tính chất rất khác về nhiều mặt so với quá khứ. Ta cần nhớ kỹ việc ấy để điều chỉnh cách suy nghĩ của mình. Nhu cầu thế giới phải được nhận biết bằng trí tuệ và tinh thần, mà không phải tình cảm. Rất nhiều người chí nguyện thiên về tình cảm; họ tránh  đối mặt với dữ kiện đang có, và xem xét vấn đề theo ý có tiên kiến của họ về phụng sự và lý tưởng theo suy nghĩ của riêng mình.
● Sự thành đạt theo nghĩa thanh cao hơn, đặt tiêu chuẩn và giá trị cao hơn. Có nghĩa tánh giải đãi, tìm giải trí, tranh luận và chỉ trích, không có chỗ trong đời người thật tâm muốn làm việc. Họ được đòi hỏi:
– Chăm lo cho thể xác lành mạnh, và có tính dửng dưng thiêng liêng với cảm xúc cá nhân và phản ứng với sức khỏe.
– Hoàn toàn chú tâm vào việc đáp ứng với nhu cầu của nhân loại,
– Tuyệt đối làm việc cho Thiên Cơ.
– Hợp tác khôn ngoan với tất cả những ai mà ta nhận biết là ở nấc cao hơn mình.
– Bảo tồn năng lực qua việc giữ yên lặng, và qua việc luôn tỏa ra ý quên mình.
– Cẩn trọng để có hành động đúng đắn trong các hoàn cảnh, sao cho hiệu quả của việc làm không bị hư hại.
Ấy là những gì mà người phụng sự được đòi hỏi trong thế giới ngày nay, là điều mà Thiên Đoàn Hierachy mong đợi, và là điều sau rốt sẽ đưa bạn tiến xa trên đường Đạo. Ngược lại lòng tư lợi sẽ không đưa bạn đi xa.
● Phát triển tính uyển chuyển và thái độ nhìn nhận rằng - tuy Thiên Cơ vẫn vậy - kỹ thuật, cách trình bầy, lý tưởng và phương pháp bắt buộc phải thay đổi. Chuyện không dễ làm nên câu hỏi đặt ra là ta có sẵn sàng bỏ qua bên những gì được dạy dỗ khi xưa, có ý niệm rõ rệt, chịu thay đổi phương pháp và làm theo cách mới để đáp ứng nhu cầu thế giới mới, do các ảnh hưởng mới đang tới ?
Đây là lúc có nhiều thay đổi nên khi làm việc trong nhóm, người ta nên tránh bất cứ hình thức nào có tính khẳng định cái tôi self-assertion, hay sự áp đặt ý riêng của họ hay tính độc đoán. Ai tin chắc là mình luôn luôn đúng, và sự diễn giải của họ về chuyện gì cần thì không sai chạy, và kẻ khác phải hợp tác với điều họ đã vạch ra, có thể ngăn cản lớn lao công cuộc chung. Phận sự của người chí nguyện đương thời là cảm biết nhu cầu và rồi đáp ứng với nó; ấy là một phần của kỹ thuật mới đang thành hình.
Cuộc đời của người đi trên đường Đạo là dần dần mà vững vàng tiến dần đến trung tâm, trở thành một phần của Thiên Đoàn như các đấng Cao Cả đang là vậy. Thiên Đoàn là nơi hòa hợp tất cả linh hồn ở những cảnh cao thuộc cõi trí; khi con người cảm nhận được linh hồn, chịu sự điều khiển của nó và sau rốt đồng hóa với linh hồn tức Chân ngã, thì cùng lúc họ tiến dần vào tâm của sự hòa hợp. Khi tình thương của ta cho nhân loại gia tăng, và bớt quan tâm dần tới cái tôi thì ta đang trên đường tiến vào tâm của ánh sáng và tình thương, nơi mà các Chân Sư ngụ.

Làm Việc trong Nhóm
Ta hãy xem sơ qua mối liên hệ giữa Thiên Đoàn và người chí nguyện. Chỉ vì chúng ta là kẻ sơ cơ mới đặt chân lên đường Đạo mà trọn đề tài này gây ra nhiều thích thú. Người mới bắt đầu luôn có thắc mắc về đủ mọi loại chuyện, còn ai đã qua một đoạn trên đó, nhiều kinh nghiệm hơn nên bận rộn hơn với Thiên Cơ, đầy tình thương cho đồng loại thì trọn định hướng của họ là về việc phụng sự Thiên Cơ, mà không phải về tiến bộ của riêng mình hay nghĩ đến Chân Sư.
Họ càng đến gần trung tâm và hướng về ngài chừng nào, Chân Sư càng ít chú ý tới họ và họ cũng bớt nghĩ tới ngài. Trong giai đoạn đầu, có lẽ bắt buộc họ nghĩ nhiều về liên hệ của mình với Thiên Đoàn, với Chân Sư, và với linh hồn của mình. Sang giai đoạn giữa, họ bận rộn với việc có được nhận xét đúng tầm mức. Tới chặng cuối khi họ vừa là đệ tử mà cũng vửa là vị Chân Sư, tâm thức của họ thấu nhập vào ý chí của đấng Tạo Tác; thái độ của họ là một tình thương không thay đổi, và công việc của họ là sự tỏa chiếu gợi nên kẻ khác hành động, kêu gọi người ta có đáp ứng, và đáp ứng nhu cầu tức thời của nhân loại theo Thiên Cơ.
Trong công việc sáng tạo này mà mọi người chí nguyện đều có thể góp phần, việc làm và phần việc của các Chân Sư là phóng vào thế giới những tư tưởng và ý tưởng thiêng liêng đã định sẵn, những ý niệm và ý nghĩa chứa đựng - vào bất kỳ lúc nào - Thiên Cơ ngay khi ấy cho nhân loại. Thế nên vị Chân Sư đi tìm những trí tuệ nhậy cảm với Thiên Cơ này, ngài không chính yếu đi tìm người ta gọi là ‘tốt lành’ mà tìm những ai có thể cùng đáp ứng với phần Thiên Cơ mà ngài phụ trách, và ai có thể được dạy dỗ để đặt phàm ngã của họ thuận theo các đòi hỏi của việc làm.
Họ phải không có mục đích ích kỷ nào, và không ao ước gì ngoài việc trợ lực vị Chân Sư và các đại đệ tử, làm việc dưới sự giám thị của ngài cho mặt này hay kia của Thiên Cơ. Việc như thế gồm có huấn luyện để thích nghi, nhận biết các giá trị thật, có uyển chuyển trong cách suy nghĩ và quên mình làm việc cho đồng loại.
Tới đây vài ngộ nhận nên được nêu ra và chữa lại. Một nhóm của Chân Sư không phải là nơi mà người chí nguyện được dạy để uốn nắn phàm ngã của mình và tiếp xúc với linh hồn. Việc sửa mình, lập hạnh, biết làm việc chung với kẻ khác, suy nghĩ đúng đắn, là do mỗi ai tự luyện cho mình trước khi họ có thể gia nhập một nhóm phụng sự của vị Chân Sư, và không phải là chuyện diễn ra trong một nhóm thực hiện phần nào đó của Thiên Cơ thuộc trách nhiệm của ngài. Những điều này có tính căn bản và là phần việc của mỗi cá nhân, dưới sự trông coi của linh hồn họ mà không phải là việc cho Chân Sư giám thị. Nói rõ hơn thì người chí nguyện cần dọn mình sẵn cho công việc là trở nên tốt lành và có khả năng, mà không nên nghĩ rằng khi vào một nhóm mới bắt đầu những việc ấy.
Một nhóm phụng sự của vị Chân Sư được phân biệt rõ do nội dung tư tưởng mà các thành viên đóng góp và ngài sử dụng trong việc làm của ngài cho nhân loại. Vậy ta thấy ngài có thể bị ngăn cản, hay trợ giúp lớn lao trong công việc của ngài do những ai mà ngài chọn lựa làm đệ tử. Về phần người chí nguyện ta nên nắm vững điều này, và có hiểu biết rõ ràng về sự đóng góp của mình cho nhóm, canh giữ tư tưởng để nó tăng sức mạnh và sự thanh khiết cho lý tưởng của nhóm.
Đó là về phần của thành viên, còn cho vị Chân Sư công việc chính yếu của ngài là giúp người trong nhóm - tức các cộng tác viên của ngài - phát triển cảm nhận về thế giới, cho phép họ thấy tình trạng trước mắt so với quá khứ, với hiểu biết về Thiên Cơ về tương lai. Bạn thấy chăng, cái nhìn bao trùm quá khứ, hiện tại và tương lai. Ai trong nhóm chưa tới mức đó và ở dưới họ sẽ thực hiện phần Thiên Cơ theo sự gợi hứng và giúp đỡ của họ.
Cả hai không phải là người có viễn ảnh thần bí hay lý tưởng mơ hồ, mà là người thông minh và thực tế, tìm cách biến sơ đồ lý tưởng thành thành công cụ thể trên trần. Khả năng làm việc và bước vào nhóm của bạn tùy thuộc vào việc bạn có thể không vị kỷ và quên đi những cái ngã - của bạn cũng như của người trong nhóm và tất cả những ai bạn gặp - để thấy tất cả là linh hồn đang đồng hành với mình, có người đi trước và bạn tự đặt mình làm việc với họ, có người đi sau cần bạn giúp đỡ. Nó cũng có nghĩa là trong tương lai bạn tiến lên phụng sự nhiều hơn, được thúc đẩy vì tình thương trong tim cho đồng loại.
Vị Chân Sư không huấn luyện người trong nhóm thảnh đệ tử tốt lành và vâng lời, thực hiện ý ngài và thể hiện mục tiêu của ngài; mà ngài luyện tập họ để về sau tới phiên họ trở thành Chân Sư, và ngài không hề rời mắt khỏi đích nhắm ấy. Người trong nhóm vì vậy học cách sử dụng lực và hướng chúng vào nơi ấn định. Chân Sư chọn người hợp tác với ngài vì dù có khiếm khuyết cá nhân, họ đáp ứng theo cách mỗi người với viễn ảnh lúc này của Thiên Đoàn, ngài nhận biết ai cảm nhận được    Thiên Cơ kích thích họ như là một nhóm, vì họ dốc lòng biểu lộ viễn ảnh họ thấy. Sự khích động và gợi hứng làm họ trở thành hiệu quả hơn trong việc làm của mình.
Ta hãy thử liệt kê các nhận biết này:
– Nhận biết viễn ảnh.
– Nhận biết Thiên Cơ, hai điều này khác nhau.
– Nhận biết ý tưởng của vị Chân Sư.
– Nhận biết nhau như là linh hồn và người phụng sự.
Khi các nhận biết này được hiểu đúng đắn thì nhóm người có thể được dùng làm con kinh, qua đó năng lực tinh thần, sự sáng và tình thương có thể được tuôn vào cho thế giới khắc khoải cần những điều này. Nhóm nay có sức mạnh để làm việc, mà sức mạnh này là đáp ứng lại cho một đời được sống đúng cách, và tình thương được cho ra trọn vẹn.
Có một luật lớn nói rằng ‘Ai cho ra tất cả, thì tất cả được cho họ’. Đa số người chí nguyện không biết và không nhận ra luật này, họ không cho ra vô điều kiện và đầy đủ cho việc làm của Thiên Đoàn hay ai cần. Bao lâu chưa làm vậy, họ giới hạn mức hữu hiệu của mình và đóng cánh cửa cho sự cung cấp chẳng những cho chính họ, mà luôn cả nhóm mà họ là thành viên. Ta có thể nghĩ điều này quá sức mình, nếu vậy ít nhất nên xem nó như là mục đích trong tương lai, là đích cho ta nhắm tới mà không nên gạt bỏ hoàn toàn. Không ai bị đòi hỏi phải toàn thiện ngay, nhưng ai cũng có thể có nỗ lực nhiều hơn để cho ra và phụng sự.
Nhóm người làm việc như vậy trở thành  một tụ điểm cho năng lực tinh thần nơi cõi trần, khi ấy nó có thể được Thiên Đoàn sử dụng để giúp nhân loại ở bất cứ đâu, nhất là khi có khủng hoảng. Thiên Cơ nhờ thế được làm tuy nhiên diễn tiến có thể là sự đáp ứng  có ý thức hay không ý thức với ấn tượng nhận được. Với ai cảm nhận có ý thức, nó dẫn tới hoạt động thông minh.
Công việc của vị Chân Sư là khêu gợi nơi người chí nguyện trong nhóm của ngài tình thương sâu xa và nhận biết cơ hội đang có, để phần đời riêng tư của họ mờ đi trong tâm thức, và mối bận tâm chính của họ là các ý:
– Điều chi phải là việc phụng sự của tôi vào lúc này ?
– Điều chi là những việc không cần thiết trong đời tôi mà tôi không nên chú ý đến ?
– Chuyện gì cần làm ?
– Ai là người tôi có thể giúp ?
– Phần nào của Thiên Cơ mà tôi nên nỗ lực nhiều nhất để giúp dỡ vào lúc này ?
Đây là những câu hỏi phải được đáp ứng và có trả lời quân bằng, thông minh và không cuồng tín. Bạn có thể cho là chúng quá cao xa vượt mức của mình, nhưng ấy là đặc tính của con đường. Ta nên luôn có một đích nhắm tới và chỉ bằng cách tiến đến nó mà con người phát triển; và sự mở lớn, chỉ cho thấy một chân trời cao rộng hơn, là tính chất của chánh đạo.

Lực Tác Động
Chúng ta thấy một trí tuệ phát triển là điều cần thiết khi người ta muốn góp phần vào việc phụng sự chung, và điểm đáng nói là sự việc đi hai chiều, khi người chí nguyện thêm tư tưởng thanh khiết của mình vào viễn ảnh mà nhóm hướng tới, hoàn toàn quên mình lúc làm vậy, thì có những việc xẩy ra cho chính họ tuy họ không hề mong đợi. Ấy là khi ta tuôn năng lực tư tưởng cần thiết cho việc xây dựng, thì chuyện có liên quan đến thể sinh lực (ether), nó dẫn tới việc có tái sắp xếp màng lưới sinh lực.
Giải thích thì khi cái trí là vận cụ cho sự sống, ánh sáng và tình thương của linh hồn, và mạng lưới ether đáp ứng với luồng năng lực từ cõi trí, thì có thay đổi trong tất cả các thể. Thể ether cá nhân chỉ là một phần của màng lưới ether của nhân loại, và sự từ từ tái sắp xếp của nhiều phần sau khi đủ thời gian trôi qua, dẫn tới việc chuyển hóa trọn thể.  Phương tiện cho việc này diễn ra là cái Trí. Cái trí tạo ra hình tư tưởng, vật này biểu lộ nơi cõi trí mức hiểu biết của ta về Thiên Cơ, và khả năng của ta truyền năng lực từ cõi trí xuống thể ether mà không bị tình cảm hay dục vọng thấp ngăn cản.
Thể ether là một mạng lưới năng lực ánh sáng, được khích động bởi loại hay tính chất năng lực mà nó đáp ứng nhìn theo mặt tiến hóa. Ta có thể ghi:

●  Người chưa tiến hóa và còn bán khai chỉ đáp ứng với sinh lực vật chất hay prana, làm linh hoạt bản chất thấp, phát triển bản năng và do đó đặt nền tảng cho thể xác như là lớp áo ngoài cho linh hồn. Ở giai đoạn này, trí tuệ ở giai đoạn phôi thai, các ham muốn vật chất và ngũ quan là yếu tố chế ngự. Tất cả những điều này là do hoạt động của prana khi nó tuôn qua thể ether.

● Người trung bình bị ham muốn - là một năng lực - thúc đẩy; ham muốn phát sinh từ ham muốn của thế giới và nó phát sinh ra năng lực ham muốn - làm phát triển hay tổ chức thể tình cảm. Nó tuôn vào cái sau, thúc đẩy con người vật chất có những hoạt động mà sẽ làm thoản mãn dục vọng. Đây là tiến trình song song với việc làm của prana thúc đẩy bản năng của thú tính có hoạt động.
Cả hai bắt buộc diễn ra song song và sinh ra tranh chấp - sự tranh chấp đầu tiên (bên trong con người) của cặp đối nghịch. Dần dần năng lực prana trở thành tự động làm việc; tâm thức nay chuyển sang thể tình cảm và sinh hoạt có tính bản năng nay chìm vào tiềm thức, thí dụ là ta không còn ý thức nhu động của ruột. Khi đó con người trụ sự sống của mình vào thể tình cảm, và thể ether trở thành linh hoạt do luồng năng lực mạnh mẽ của ham muốn tuôn vào.

● Nơi người phát triển và có ba thể xác, tình cảm, trí hòa hợp, họ từ từ khiến năng lực trí tuệ làm chủ thể ether, và sinh hoạt của họ nơi cõi trần không còn được thúc đẩy do bản năng hay ham muốn nhiều như là năng lực trí tuệ, để thể hiện kế hoạch của họ. Kế hoạch này càng lúc càng cho thấy dục vọng thông minh của họ có tích ích kỷ ở giai đoạn đầu, vừa ích kỷ vừa cao thượng ở giai đoạn giữa, rồi chậm chạp đáp ứng với Thiên Cơ cho thế giới và cho nhân loại.

● Sau chót, khi lực của chân ngã có thể áp đặt lên phàm ngã, năng lực cái trước thay cho cái sau và phàm ngã - nay trụ vào cái trí và đáp ứng với ấn tượng của linh hồn - biểu lộ nơi cõi trần chủ tâm và sức mạnh của linh hồn, qua não bộ của thể xác và cơ thể.

Thể ether của con người thúc đẩy xác thân linh hoạt. Các năng lực thuộc bốn loại nêu trên làm chủ thể xác qua mạng lưới ether. Sự tranh chấp trong tâm thức não bộ của người đang tiến hóa, có tầm quan trọng khi người ta bắt đầu nhận biết các luồng lực chế ngự này, nguồn gốc và ảnh hưởng của chúng.
Như thế, bạn lập tức thấy ngay việc làm của người trên đường Đạo gần như hoàn toàn nằm trong cõi của năng lực và lực, hay như ta đã nói trong một bài trước, huyền bí học là khoa học của lực, nguồn gốc và tác động của chúng. Người chí nguyện ban đầu có thể sinh hoạt, làm việc có tính lý tưởng, đầy ước vọng thanh cao, nhưng rồi về lâu về dài khi phát triển hơn, họ bắt đầy ý thức về lực và năng lực tác động lên họ, chúng phát sinh tự trong họ, cho ra thay đổi và ảnh hưởng đặc biệt cho sự thể hiện tức đời sống của họ ở cõi trần. Khi họ biết mình là “Sự Sống và nhiều sức sống (các thể)”, là tổng hợp các lực cùng năng lực kiểm soát, khi ấy họ tiến thêm một bước và việc làm của họ hóa đáng kể hơn.
Sự phát triển ấy làm cho hoạt động của họ có ảnh hưởng lớn rộng hơn, mà cũng gây ra vấn đề cho họ. Người chí nguyện phải để ý tới ba nhóm năng lực tác động lên mình.
– Năng lực từ chính bản thân (xác, tình cảm, trí tuệ) và từ linh hồn của họ.
– Năng lực từ người khác hay nhóm đến với họ. Ảnh hưởng của chúng tùy thuộc vào việc người bạn có tính xả bỏ không còn trụ vào cái ngã tới mức nào, và do vậy cảm ứng ra sao khi lực tới. Luật huyền bí nói rằng ta càng thương yêu thì càng đáp ứng nhiều hơn, và bao gồm quan điểm, bản chất và lực của người khác. Chuyện có thể hóa ra không chịu được nếu người ta bị lực làm choáng ngợp, thực tế là đa số người tránh được việc ấy do họ bận tâm với chính mình, với sự phát triển của mình, và không nhậy cảm với chuyện khác.
– Năng lực từ cõi cao.

Ảo Mộng
Tới đây đề tài có vẻ nặng phần kỹ thuật, vậy ta hãy đi vào thực tế một chút. Một trong các mục tiêu của sự phát triển và việc huấn luyện cho người chí nguyện là sống trọn vẹn, thực sự trong mỗi cõi mà họ có ý thức. Nói rộng ra người đi trên đường tinh thần đúng hướng là người có ba chiều đo, với tình cảm, trí tuệ nẩy nở đầy đủ mọi mặt, mà không phải là kẻ thui chột tình cảm, không biết thương yêu với trí tuệ phát triển khô khan; hay là kẻ ‘tốt lành’ đầy tình thương mà thiếu óc phân biện, suy xét. Tâm thức được nhắm tới là vượt khỏi tư lợi và chú tâm chính yếu vào việc sống tinh thần.
Một thực tế khác là mỗi người chí nguyện, khi bị lý tưởng lôi cuốn và nhiệt thành hiến mình cho việc phụng sự, đều có những điểm chung sau:
– Người bạn nói rằng họ quên mình, mà thường khi họ quan tâm rất mực đến chỗ của họ trên đường tiến hóa.
– Họ tin mình nắm được chân lý phần nào, có cách diễn giải, quan niệm riêng cố định của họ về chân lý mà họ tin chắc là đúng nhất, cao nhất họ có thể hiểu được vào lúc ấy.
– Họ tin mình đã tới một điểm mà họ đã ghi nhận các giá trị tinh thần nào đó, và nhiệt tâm đòi hỏi đi bước tới.
Chuyện diễn ra là sự việc thường được xếp đặt để người ta vỡ ảo mộng về mình, về những ý niệm mà hạ trí đã tạo ra, nhằm chuẩn bị cho họ tiếp nhận các đường lối mới hơn để tới chân lý.
Ta thử liệt kê sau đây vài ảo mộng đó.
1. Ảo mộng về vận mạng. Khi bị chi phối, người bạn tin rằng họ có việc quan trọng phải thực hiện và phải ăn nói, làm việc như vận mạng đã định. Nó nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh mà thực ra không có căn bản.
2. Ảo mộng về ước nguyện. Ai bị vướng mắc thấy hoàn toàn thỏa mãn và bận rộn với ước nguyện của mình về sự sáng, và dậm chân tại chỗ với sự kiện họ là người chí nguyện. Kẻ như thế cần tiến lên trên đường Đạo, ngưng sự quan tâm và thỏa mãn với mục tiêu và ước vọng tinh thần của họ.
3. Ảo mộng rằng mình đúng. Nói tách bạch thì người bạn cho là quan điểm của họ hoàn toàn đúng. Vậy nó cũng nuôi lớn lòng tự kiêu, và có khuynh hướng làm người phụng sự tin họ có thẩm quyền và không hề sai lầm. Đó là luận cứ của nhà thần học.
4. Ảo mộng về bổn phận. Nó đưa tới việc nhấn mạnh quá đáng vào ý về bổn phận, sinh ra hành động vô ích và nhấn mạnh chuyện không cần thiết.
5. Ảo mộng về tình trạng chung quanh, thường xuyên dẫn tới ý bực bội, thấy hoài công hoặc thấy quan trọng. Có lẽ câu nói ‘Không mợ thì chợ cũng đông’ chữa lại được phần nào điều này.
6. Ảo mộng về trí năng, hiệu quả của nó và khả năng nó có thể đối phó với bất kỳ vấn đề nào. Chuyện không tránh được là nó sinh ra sự cô lập và cô đơn.       
7. Ảo mộng về lòng hiến dâng, làm kích thích không đúng mức thể tình cảm. Ai bị mê muội như thế chỉ thấy một ý tưởng, một người, một thẩm quyền, một mặt của chân lý. Nó nuôi dưỡng lòng cuồng tín và kiêu hãnh tinh thần
8. Ảo mộng về tham vọng cá nhân.

Kết
Khi qua được sự mù quáng này mà vẫn luôn giữ phần tinh thần của mình được toàn vẹn, người bạn học được ba bài học quan trọng sau.
– Sự nhận biết rằng họ chia sẻ tất cả những khuynh hướng của con người, tốt và xấu, và do vậy, có thể phụng sự.
– Khám phá rằng điều mà họ khinh ghét nhất và sợ nhất, là điều hiện hữu mạnh mẽ nhất bên trong họ mà chưa được nhận ra. Họ cũng thấy mình phải tìm hiểu và biết những điều này trong tâm thức, để sau cùng chúng trở thành các thuận lợi, thay vì là chuyện phải tránh né.
Người bạn học không sợ điều chi; anh là tất cả; anh là một con người mà cũng là nhà thần bí, là huyền bí gia và người chí nguyện. Và - do tất cả những trạng thái tâm thức có được này - sau rốt anh trở thành bậc Chân Sư. Anh đã ‘làm chủ mastered’ mọi chặng đường và trạng thái ý thức.
– Sự vô ích của những thái độ trong quá khứ, và cách nhìn sự sống cùng con người đầy tính giáo điều (thường dựa truyền thống và hoàn cảnh), khi họ phân cách mình với đồng loại.
Khi con người thực sự học xong ba điều này, họ biết và thành bậc đạo đố.

Discipleship in the New Age, A.A. Bailey