CON NGƯỜI: PHẦN LỊCH SỬ LÃNG QUÊN (5)

Con Người:

Phần Lịch Sử Lãng Quên(tt)

Xem Các Bài CON NGƯỜI: PHẦN LỊCH SỬ LÃNG QUÊN

Việc người nữ bị áp chế và sự can thiệp vào tự do con người và lương tâm của họ, là những nguyên nhân chính làm suy sụp nền tảng của sự hiện tồn, biến thế giới thành nhà tù cho nhân loại, sinh ra bệnh tật, thiếu thốn và sự tử vong, kềm giữ con người tới độ họ phải lấy hết sức mình và thời gian để chống chọi, làm họ không còn thì giờ để trực diện những vấn đề cao hơn của sự sống. Ta phải trưng ra chân lý cho ai muốn biết, và tin tưởng là lương tâm đã tỉnh thức của con người sẽ tìm ra cách cứu rỗi họ.
Nhằm mục đích này một nỗ lực đã thực hiện ở đây để mang lại chút ánh sáng cho nơi mà phụ nữ lẽ ra phải nắm giữ; nhưng đề tài chưa cạn. Dầu vậy chúng tôi hy vọng là đã nói đủ để mang lại nhận định có suy xét.  Tập sống độc thân nhiều hơn là cách duy nhất để mong có được tiến bộ chân thực cho con người;  sự độc thân này không phải là kết quả do sự bó buộc, mà là hệ quả của sự tăng trưởng tinh thần, cho ra lòng tin tưởng sâu xa và nâng cao phẩm cách nói chung.
Lời phản đối thường có nhất về sự độc thân là nếu ai cũng thực hành thì sẽ dẫn đến tận thế; nhưng lời phản đối ấy chỉ quan trọng với ai đặt nặng giá trị về cuộc sống hữu hình hiện tại. Sự tận thế muốn nói chỉ là việc chấm dứt trạng thái tâm thức thoảng qua hiện thời của ta, thì không phải là tai họa đáng sợ cho lắm. Và lời phản đối lại cũng vô giá trị vì cái nguy cơ kinh sợ, dù lớn lao thế mấy, sẽ không bao giờ xẩy ra, vì sẽ luôn luôn có đủ số người để tiếp tục việc truyền giống.
Dầu vậy chỉ có một điều kiện cần phải có, là vài người cho rằng chỉ những ai thanh cao nhất và không ích kỷ nhất là được thúc đẩy bởi bản năng cao nhất trong người để sống đời độc thân, và như thế chừa lại ai ít xứng đáng nhất lo việc tiếp tục giống nòi. Ta cần vạch ra ở đây là đường lối suy luận ấy hoàn toàn bỏ qua năng lực sống động của tư tưởng mà ai độc thân sẽ ảnh hưởng lên ai muốn có con; do đó mức trung bình của nhân loại thay vì suy thoái thì nhiều phần là sẽ cải thiện.
Ai tự trong lòng mình ý thức được sự thật và dốc lòng tìm hiểu các vấn đề về cuộc đời, bị xem như là người vô dụng trong nhân loại, và bị ai thực tế và duy vật làm ngơ, coi khinh. Nhưng giá trị thực của người như thế hiển hiện cho cái trí tinh thần, họ là anh hùng giữa bao người và là kẻ làm ơn cho nhân loại. Bước đầu tiên họ có để làm công việc của mình, là giải thoát khỏi mọi ràng buộc vật chất, và có được tự do khỏi mọi mối dây trần thế như là luật đầu tiên trong đời họ.
Đối với người ấy câu nói ‘Bạn không thể thờ Thượng đế và Tiền Tài cùng lúc’ là sự kiện đầu tiên và quan trọng nhất, và điều thứ hai là sự từ bỏ, cái này rồi cái kia, mọi ảo tưởng chi phối cuộc đời. Có được sự tự do hành động lớn nhất trong đời, họ tìm cho mình quyền không khoan nhượng của mỗi tinh thần tự do - cái quyền không có thần linh nào khác  hơn điều mà họ phụng thờ, là lương tâm của họ.
Bao lâu mà một người còn bị chi phối bởi bất cứ sự yếu đuối nào và trên hết thẩy, bao lâu còn phạm lỗi là áp chế người khác vì lòng ích kỷ tình dục - thì bấy lâu họ hoàn toàn không thể nào đẩy mạnh công việc của mình và  rao giảng minh triết thực sự. Trong quá khứ, mối sai lầm chính của tất cả cuộc tìm hiểu về điều tinh thần là không phải cách học hỏi, mà đúng hơn là tư cách của người tìm học.
Minh triết tinh thần của thế giới là của lễ mà người độc thân hiến dâng.
Không khó gì để thấy mối liên kết giữa sự độc thân và đời sống tinh thần.Liên hệ hôn nhân nào nhấn mạnh sự khác biệt giữa người nam và người nữ thì hoàn toàn không thích hợp với đời sống cao thượng hơn.Quả vị đạo sư là thành quả đặc biệt của sự độc thân.Ngạn ngữ của Ấn nói ‘Ai mong muốn có con cháu là ước ao cái chết; ai bất tử thì phải sống độc thân’.
Ai quen thuộc với sự kiện về thể tình cảm biết cảm xúc dục tình làm tiêu hao năng lực ra sao, phần năng lực mà chỉ có nó mới giải thoát con người thanh khỏi cái khung vật chất. Con người đã là gì thì họ sẽ là vậy trở lại và còn cao hơn nữa. Việc thụ thai vô nhiễm mà nhiều tôn giáo chấp nhận như là giáo điều, chắc chắn sẽ là cách sinh sản thông thường khi các giống dân cao hơn xuất hiện, giống dân mà trong đó mọi người nam và nữ đều ‘giác ngộ’.
Hiểu biết này về việc sinh sản tinh thần là một trong các điều bí nhiệm cao nhất của hàng đạo sư, nhưng từ đây tới ngày đó, bổn phận của mỗi người nam và nữ có đầu óc tinh thần là đẩy mạnh sự tiến bộ của giống dân bằng việc có sự thanh khiết cá nhân, điều là bước đầu tiên trên đường dẫn tới quả vị đạo sư. Thực vậy, vị đạo sư đại diện cho ta ngày nay, không phải chỉ là đỉnh cao tinh thần mà giống dân từ đó đi xuống, mà còn là đỉnh khác cao cả hơn nhiều mà nó sẽ đạt tới.
Những vị độc thân cao cả ấy, không là sản phẩm của riêng quốc gia hay thời đại nào, do nỗ lực không ngừng đã giữ cho lý tưởng và những điều khả hữu được sống động; và đường lối và vị đạo sư truyền hiểu biết ấy thì không phải là con nối nghiệp cha, mà là sự truyền bá tinh thần, theo cách đó tinh thần của bậc Thầy rót chân lý vào tâm tư sâu thẳm của người sơ cơ.
Ta có cần nói thêm về điều này để hỗ trợ cho chủ trương đưa ra ?Độc giả nào cần chứng cớ thì chỉ cần nhớ lại gương của mọi thời đại. Những bậc thầy tinh thần, trong và ngoài đạo Thiên chúa, là người không có mối liên hệ tình cảm, mà do sự bất công của nó đối với phái nữ, có tính hủy hoại đối với sự phát triển cao nhất cho cá nhân. Ai trong số các nhà tiên tri của Thiên chúa giáo đã không, đầu tiên tự thoát khỏi dây ràng buộc của gia đình, trước khi khởi sự làm phần việc của ông ? Ai là người biện hộ đại tài cho sự độc thân hơn thánh Paul ?Ai dịu dàng và khoan thứ trong việc nhìn nhận sự yếu đuối và dục tình nơi người, khi ông dạy sự độc thân bằng lời sau.
‘Và tôi nói điều này để có lợi cho bạn, không phải để cột chân bạn mà để làm cho thích hợp, là bạn có thể phụng thờ Thượng đế mà không bị phân tâm’ (1 Corinthian vii, 35)’ ?

 

Chương VI
Mẫu Chủng Thứ Tư  – Người Atlantis.

Trong chương này và về sau, khi sách ghi là người Aryan thì ta hiểu  đó là người Ấn Độ ban đầu, thuộc giống dân thứ năm.
Tới nay chúng ta đã theo dõi cuộc tiến hóa tổng quát của nhân loại, và chưa nói gì về các nhánh nhóc khác nhau của nó; nhưng ta có nói rằng trong mỗi vòng có bẩy mẫu chủng khác nhau sinh ra và tàn lụi trên một hành tinh. Trong vòng hiện tại trái đất đã có bốn mẫu chủng phát triển và nay mẫu chủng chính là thứ năm. Ta không nên nghĩ rằng một mẫu chủng phải hoàn toàn mất dạng trước có mẫu chủng khác sinh ra, nhưng giai đoạn mà mẫu chủng nào chiếm địa vị thượng tôn thì được gọi là thuộc về mẫu chủng ấy.
Nói về mặt địa chất, thời hiện tại là thời của con người, nhưng nó không có nghĩa là cá không bơi trong nước, loài bò sát không bò trên đường của ta, và trong rừng không có thú bốn chân. Tuy giống dân thứ năm là giống dân chính, ta đừng quên rằng giống dân thứ tư và ngay cả thứ ba, cũng vẫn có người đang sống.Trong số dân cư trên trái đất, người da đen là giống dân sớm nhất; kế đến là da đỏ-vàng; và người gần hơn hết thẩy là nâu-trắng.Đây là giống dân Aryan, nói những ngôn ngữ mà tính tương hợp với nhau nay đã được công nhận.
Để hiểu sự tiến triển của nhân loại qua các giống dân khác nhau, ta cần nhớ là mỗi giống dân chiếm một thời gian dài.Như thế giống dân hiện tại đã khởi đầu từ hơn một triệu năm về trước, xa hơn nữa là giống dân thứ tư và thứ ba, mỗi cái cũng đã có thời kỳ thượng đẳng.  Niên đại xếp theo kinh thánh và địa chất học sẽ thấy bực bội với câu trên, nhưng kinh nghiệm của các vị đạo sư đang sống cũng như là niên đại thiêng liêng của người xưa hỗ trợ ý đó.
Nếu tài liệu lưu trữ trong các đền thờ của Ai Cập cổ, Chaldea, hay Ấn Độ được tìm ra cho thế giới ngày nay, ta sẽ thấy lịch sử và khoa học hiện đại chỉ có được sự kiện rời rạc và chắp nối chúng với nhau, mà không có hiểu biết về chỗ của chúng trong thời gian. Địa chất học không khó mà nhìn nhận là con người đã có mặt trên trái đất trước thời băng giá, nhưng các vị thầy bí truyền biết là các nền văn minh vĩ đại hơn của Hy Lạp hay La Mã đã lớn mạnh trước khi ấy, và đã có thời kỳ riêng của chúng.
Loại bỏ hết mọi nhận định sai lầm về đề tài là việc làm to lớn. Ta sẽ không phí giờ và năng lực để tìm cách tranh cãi bao lỗi lầm có đầy trên thế giới, mà sẽ đưa ra vài biến cố liên kết với cổ sử của giống dân của ta tới mức có thể được, và cho thấy chúng ăn khớp với sự kiện từ xưa truyền lại ra sao. Tất cả các nhà huyền bí học của nền văn minh đầu tiên trong vòng hiện nay, biết rằng vòng bắt đầu với giống dân thứ ba, mà dân số rơi rớt lại còn thấy nơi thổ dân Úc. Nói nghe có vẻ lạ, tuy nhiên những người thấp kém này của nhân loại là con cháu mà tiền nhân của họ có nền văn minh trước hơn cả nền văn minh của người Phoenix hay Babylon bao thế kỷ.
Mới thoạt trông thì rất khó mà nhận ra sự liên tục nơi họ từ nền văn minh cao độ thuở sơ khai, nay không còn để lại dấu vết gì mà ta có thể nhận biết. Dầu vậy, ai học hỏi các khoa học huyền bí biết rằng cuối mỗi thời kỳ thượng đỉnh của một giống dân được đánh dấu bằng thiên tai lớn lao, bằng lửa rồi bằng nước hay ngược lại. Nếu Âu châu tiến bộ ngày nay bị thiên tai như thế thì nền văn minh của nó sẽ biến mất; không có kim tự tháp nào nào còn lưu lại để nhắc nhở con cháu đời sau sự vinh quang của nó đã mất; và trong số dân chúng sống sót, nay không còn điều kiện của đời sống văn minh, chẳng bao lâu sẽ rơi vào tình trạng dã man. Tuy văn minh bắt đầu với giống dân thứ ba, ta chớ nên nghĩ rằng người thuộc giống dân thứ hai là người man rợ; vì ta sẽ thấy là những điều kiện về cảnh sống của họ làm cho sự văn minh hay dã man đều không thể có được.
Nền văn minh sớm nhất với dấu vết không thể lầm lẫn được mà ta có, thuộc về giống dân thứ tư là Atlantis. Đây là lúc có những nền văn minh ghi trong các sách như Popul Vuh, Uttara Ramayana và nhiều sách khác. Trong bộ chuyện Valmiki nổi tiếng bằng Phạn ngữ, ta thấy nhiều chi tiết về nền văn minh của giống dân Atlantis sống gần bán đảo Ấn Độ. Mức thịnh vượng về vật chất của giống dân này tiến xa rất nhiều so với người Ấn gốc Aryan.
Sự hiểu biết của họ về những tài nguyên bí ẩn của thật là kỳ diệu, họ biết tìm phương hướng để lái vật bay trong không bằng cách dùng năng lực tinh vi mà Bulwer Lytton đề cập tới gọi là Vril. Nhà của họ giống như của người Peru cổ thời, có nền dát vàng.Vũ khí tàn phá mà họ thường xuyên dùng lại cao cấp hơn nhiều so với những gì ta biết, tới độ khó tưởng tượng nổi.Nghệ thuật, văn chương và khoa học có nguồn gốc từ thời giống dân này; nhưng người Aryan đã phát triển nền văn minh của riêng họ trước khi tiếp xúc với người Atlantis.
Văn chương thời Atlantis còn lưu lại rất ít, và nghệ thuật với khoa học của họ gần như không để lại vết tích gì trừ ở Trung Hoa. Do sự hiểu biết thượng đẳng của mình, giống dân thứ tư tạo ra một nền văn minh vật chất mà nay không còn thấy trên địa cầu. Khối lượng văn chương lớn lao của họ gần như biến mất trọn trên đời, tuy một trong những tài liệu chính yếu về chiêm tinh bằng Phạn ngữ gọi là Syrya Sidhanta, là tác phẩm của một thiên văn gia Atlantis.
Sách có nhắc đến bẩy đảo của Atlantis - Plakshadvipa và những đảo khác - và vị trí địa dư của nó được ghi dấu với sự chính xác khoa học. Một thiên văn gia tiếng tăm khác, luôn luôn được nhắc tới bằng tên Aura Maya, là của Atlantis tuy có học giả cho ông là người Hy Lạp. Asura là tên gọi chung cho người Atlantis, là thù địch của thần linh người Aryan (tức người Ấn ban đầu). Câu chuyện sơ sài này về người Atlantis nói đến giai đoạn họ tiếp xúc với người Aryan, và tiếp theo đó là việc sự thượng đẳng của họ xuống dốc. Tài liệu về thời huy hoàng của họ trước giai đoạn này (và ta phải nhớ rằng người Atlantis có nền văn minh và tiến bộ, lên tới tột đỉnh trước khi người Aryan có y phục thay cho đóng khố) được lưu giữ trong sách vở mà thế giới nói chung không đọc được, và được giữ gìn cẩn mật trong thư viện bí mật của chùa và tu viện lạt ma, hầm sâu, hang động của các nhà thần bí đắc đạo.
Ta có thể ngạc nhiên khi thấy văn bản của người Brahma mô tả họ là Rakshasas - có nghĩa người ăn thịt - và khứu giác rất tinh tế; nhưng điều ấy giải thích được dựa vào thứ tự phát triển của giác quan nơi các mẫu chủng và chi chủng khác nhau. Chúng ta thuộc mẫu chủng thứ năm và có vị giác phát triển nhiều hơn hết so với các giống dân trước, còn khứu giác đạt tới mức cao nhất nơi giống dân thứ tư.
Tài liệu bí truyền cho thấy là một phần lớn của Ấn Độ vào thời người Aryan tới cư ngụ đã thuộc về người Atlantis, cũng như là nhiều phần của Âu châu, nhất là Hy Lạp và Ý, chưa kể tới các thuộc địa Phi châu của Atlantis tại Ai Cập và ven biển Địa Trung hải. Nói về tổ tiên người Atlantis của Hy Lạp và La Mã, một trong các vị Thầy của chúng tôi nói rằng.
– Người ‘cổ Hy Lạp’ gốc Atlantis còn không thể được gọi là ‘thổ dân - autochtones’, chữ thuận tiện chỉ nguồn gốc của bất cứ ai mà không truy ra được tổ tiên của họ, và với người Hy Lạp nó có nghĩa còn hơn là ‘thổ dân’ hay người sơ khai. Dầu vậy, chuyện gọi là ‘huyền thoại’ của Deukalion và Pyrrha thì chắc chắn không khó tin hay lạ lùng hơn chuyện của Adam và Eve, một huyền thoại mà trăm năm trước đây hẳn không ai dám và ngay cả nghĩ đến việc đặt câu hỏi. Và theo nghĩa huyền bí thì truyền thống Hy Lạp còn có tính lịch sử hơn nhiều biến cố gọi là lịch sử trong thời Olympic, tuy cả Hesiod và Homer có thể không ghi lại chuyện trước vào các thiên anh hùng ca của họ.
Nếu các sử gia học được điều chi nhiều hơn nơi ‘thổ dân autochtone’ của Ý tức người Iapygians - hẳn ta có thể gọi người ‘cổ La Mã’ là thổ dân. Mà như vậy lại có điều nan giải khác về lịch sử, là lịch sử  biết rằng  người xâm lăng gốc Latin đánh đuổi và sau cùng đồng hóa dân ở vùng Calabria, và như vậy cho thấy không có tương hợp nào về dòng giống giữa hai sắc dân này.
‘Hơn thế nữa, nhà khảo cổ tây phương bảo thủ ý mình và không chấp nhận điều gì khác ngoài suy luận của họ.Họ không tìm ra được gì từ những chữ khắc bí ẩn không giải mã được trên các đền đài của người Iapygian, và do vậy trong nhiều năm nói rằng không thể truy ra chúng … Tài liệu của huyền bí gia không phân biệt tổ tiên người Atlantis giữa người Hy Lạp và La Mã. Tài liệu ấy phần nào mở rộng thêm lịch sử, mà cũng có khi phản bác, và dạy rằng huyền thoại của người Latin về dân Ý (Itali), dân đã vượt rặng núi Apennines, (giống như  trước họ - và điều này cần nói rõ - người Aryan ở Ấn Độ đã vượt rặng Hindu-Kush) đi vào miền bắc của bán đảo Ý, ở đó đã có ngôn ngữ sơ khai hiện hữu trong một thời gian dài trước thời đại của Romulus (nhân vật theo truyền thuyết là người lập ra thành Rome).
‘Lịch sử dân gian cho ta hay là người Latin của thời huyền hoặc, bị Hy Lạp đồng hóa tại các thuộc địa giầu có trong vùng Magna Graecia (ven biển đông nam của Ý ngày nay), tới nỗi họ không còn giữ lại nơi mình điều gì về dân tộc tính Latin sơ khai của họ. Sách nói rằng người Latin chính gốc trước thời người Ý tại Rome, khi tới cư ngụ tai Latium, ban đầu không để cho mình chịu ảnh hưởng của người Hy Lạp, là tổ tiên của người La Mã. Nhưng tài liệu huyền bí phản bác lịch sử công truyền, xác nhận là nếu, do hoàn cảnh quá dài và phức tạp để ghi ra đây, dân ngụ cư ở Latium còn giữ được dân tộc tính của mình lâu hơn một chút so với anh em đã ban đầu cùng họ tới bán đảo Ý sau khi rời phương đông (vốn không phải là quê quán của họ), họ lại mất nó rất sớm vì các lý do khác.
‘Trong giai đoạn đầu thoát được người Samnite, họ không thoát được những kẻ xâm lăng. Trong khi sử gia tây phương sắp xếp các tài liệu bị cắt xén, không đầy đủ của nhiều nước và sắc dân thành bức ghép khôn khéo nhiều mảnh theo sơ đồ hay nhất và có lợi nhất, và bác bỏ hoàn toàn chuyện thần thoại theo truyền thống, huyền bí gia không để ý chút gì đến sự tự vinh danh của kẻ được xem là người chinh phục hay lời khắc trên đá của họ …
‘Huyền bí gia đi theo sự tương hợp của sắc tộc và sự phân chia của nó thành dân tộc tính, giống dân, nhánh nhóc theo cách dễ dàng hơn, và họ được hướng dẫn chắc chắn theo cách này như học sinh xem xét bản địa dư. Học sinh có thể dễ dàng đi theo những đường viền có mầu khác nhau, để thấy biên giới của nhiều nước và các phần trong những nước ấy, chúng có biển, sông, núi phân chia ra sao, thì huyền bí gia có thể cũng thế, bằng cách dựa theo mầu sắc rõ ràng và phân biệt rõ rệt của hào quang và mức độ mầu trong con người bên trong, cho biết không sai chạy một sắc dân, bộ tộc hay một người thuộc về một trong các dòng giống riêng biệt nào, và ngay cả chi phái nhỏ của một dòng giống.
‘Điều này có vẻ mơ hồ và không thể hiểu được đối với nhiều người, ai không biết gì về khác biệt của sắc tộc trong hào quang, và không tin thuyết nào về ‘con người bên trong’, tuy với một số nhỏ người chúng có tính khoa học. Trọn câu hỏi nằm ở việc con người bên trong này - mà thông nhãn thấy được và hào quang được Von Reichenbach chứng tỏ - thì có thật hay không có thật. Nếu ta nhìn nhận rằng có người như thế, và trực nhận là bởi nó gần hơn cái thực tại vô hình, loại bên trong phải rõ hơn loại thể chất bên ngoài, thì không có khó khăn gì hay chỉ có ít để hiểu ý chúng tôi.
‘Bởi thực vậy, nếu ngay cả những nét riêng biệt về thể chất và đặc tính của một ai làm cho dân tộc tính của họ thường là phân biệt được theo con mắt phàm của người quan sát thông thường, khoan nói tới nhà sắc tộc học kinh nghiệm - chỉ một cái liếc mắt là thường  phân biệt được người Anh với người Pháp, người Đức với người Ý, chưa nói đến những khác biệt tiêu biểu của các sắc dân chính trong sự phân chia theo  nhân chủng học - thì xem ra không có mấy khó khăn để hiểu là có sự dị biệt y vậy, mà còn nhiều hơn về các loại và tính chất giữa những giống dân bên trong ẩn dưới hình hài xác thịt.
‘Bên cạnh sự phân biệt dễ thấy về thể thanh và tâm lý, còn có những tài liệu liên tục không cách khoảng trong các bản niên đại, và lịch sử của việc mẫu chủng chia nhánh dần dần từ ba mẫu chủng đầu theo địa lý. Ấy là việc làm của các vị Đạo Đồ ở mọi đền thờ từ cổ xưa tới nay, thu thập trong các bộ sách của chúng tôi.’
Các phân chia về sắc dân con người nói ở trên dùng chữ ‘gia đình gốc - root families’ thì nói cho đúng là những sắc dân địa lý. Những vị Thầy về triết lý bí truyền biết rằng trái đất vào lúc này ‘có ba giống dân nguyên thủy hoàn toàn riêng biệt đang sống, mà sự tiến hóa, thành hình và phát triển đã diễn ra song song với sự tiến hóa, thành hình và phát triển của ba tầng địa chất, là giống dân da Đen, Vàng-Đỏ, và Nâu-Trắng’.
Ngay cả tài liệu thiêng liêng của Ấn Độ mà thế giới có được, lộ ra cho chúng ta nhiều điểm thoáng qua về người Atlantis ở phía đông.Trong thời kỳ đầu người Aryan tới định cư tại Ấn Độ, những kẻ mới tới thường xuyên có chiến tranh với người Atlantis họ gặp ở vùng đó.Lâu về sau, sự việc được kể đầy đủ trong chuyện Ramayan, người Atlantis tản mác đi khắp nơi trong nước.Họ ít xâm nhập vào chỗ nào có người Aryan định cư, và chỉ ở những nơi ít dân cư mà anh hùng người Aryan mới đối đầu và gần như luôn luôn thắng thế bộ lạc dân Atlantis.
Nhưng có một đế quốc Atlantis rất hùng mạnh trải dài gồm nhiều đảo trong Ấn Độ dương, và hoàng đế Ravana, tuy có nhiều huyền thoại bao quanh ông, là nhân vật lịch sử mà nhiều lãnh địa trong đất liền phải triều cống. Quyền năng tuyệt vời mà ông có được đối với các lực huyền bí, được ghi lại bằng ẩn dụ trong thiên anh hùng ca được ưa chuộng của Ấn Độ nói trên. Việc đế quốc của ông bị Rama, anh hùng người Aryan chiếm đoạt, đánh dấu sự hùng mạnh của Atlantis bị tan biến trong phần đất ấy trên thế giới, tuy đây đó vẫn còn các thuộc địa của Atlantis kháng cự để tồn tại trong một thời gian rất lâu.
(còn tiếp)