CHỮA BỆNH

CHỮA  BỆNH

 

 

Bệnh không phải chỉ là dấu hiệu cho hay thân xác có điều không ổn, mà còn muốn nói phần tâm linh cũng cần được quan tâm nếu muốn có chữa lành tận gốc; nói khác đi chỉ nhìn bệnh về mặt thể chất không mà thôi thì chưa đủ, và còn có mặt tinh thần phải xét tới.

Phương Pháp Tâm Linh
Chữa bệnh bằng tâm linh  cóhiệu quả ra sao? Trước khi trả lời điều này, ta cần ý thức rõ ràng là việc chữa bệnh bằng tâm linh có tính khoa học như chữa bệnh bằng  phương pháp y khoa thông thường, và cả hai phương pháp đều tuân theo luật; hoặc đó là luật nơi cõi trần hoặc nơi cõi tâm linh. Kết quả xẩy đến không phải là do ân huệ từ một đấng thiêng liêng nào, mà theo tác động  của những luật công bình và bất biến trong trời đất. Vì vậy, có hiểu biết về luật cho ta lợi điểm to tát khi gặp vấn đề.
Nói về nguyên nhân, ngoại trừ những trường hợp hiển nhiên như tai nạn gây thương tích, đa số bệnh có nguyên do từ bên trong mà vào lúc này, đó thường là tình cảm. Vì bệnh là do sự bất hòa trong tâm thức, nơi người chưa phát triển họ ít bị những bệnh có nguồn gốc tâm lý, mà dễ bị bệnh truyền nhiễm, bệnh dịch lan tràn vùng rộng lớn gồm nhiều quốc gia, là những bệnh có tính thể chất, thuộc về bầy, về nhóm hơn là có tính cá nhân. Khi chúng ta phát triển nhiều hơn, cái ngã thành rõ ràng, ý thức về cái tôi riêng biệt hóa mạnh hơn, người như thế có những bệnh mang tính cách cá nhân nhiều hơn, và bớt liên hệ với tình trạng của bầy, của nhóm như người trước.
Với ai đã phát triển cả ba phần thân xác, tình cảm và trí tuệ tới mức có cảm biết về đường Đạo, bệnh trở thành vấn đề ý thức, đòi hỏi người chí nguyện phải tự giải quyết bằng cách chủ ý sáng tạo các thể của mình. Hai luật tác động ở đây mà sự hiểu biết về chúng cho giá trị vượt bậc, đó là luật tái sinh và luật nói rằng ‘Năng lực theo sau tư tưởng’. Người chí nguyện bắt đầu tạo những thể để trong một kiếp khác thích hợp hơn cho linh hồn làm chủ, là dụng cụ đầy đủ hơn để thực hiện việc hoàn thiện hơn mà linh hồn đòi hỏi.
Tuy thế, họ không hề chú tâm vào thân xác bất cứ lúc nào khi làm vậy, hay bắt đầu có nhấn mạnh về mặt thể chất, như nhắm đến việc loại trừ bệnh tật hay sự bất hòa. Họ khởi sự tuân theo chỉ dạy của linh hồn (nói giản dị là lương tâm và ở mức độ cao hơn là hứng khởi tâm linh), và làm việc với những nguyên nhân cho ra ảnh hưởng nơi cõi trần.
Chữa theo cách này thì chậm mà chắc hơn. Cách chữa tâm linh khác thí dụ như nhân điện chỉ mang lại hiệu quả tạm thời, và dựa trên việc áp chế một cách khoa học (lực lành mạnh hơn trấn áp lực bệnh) và việc phủ nhận các yếu tố can dự. Vì vậy cách chữa ấy không dựa trên cảnh ngộ thật và vào một kiếp về sau, tình trạng bị áp chế sẽ lộ ra trở lại với tiềm năng mạnh hơn, và sẽ tiếp tục làm vậy mãi cho tới lúc con người giải quyết bằng cách làm ngơ nó hoàn toàn, với chủ đích cuộc đời là có tiếp xúc với linh hồn, và thể hiện qua việc phụng sự kẻ khác.
Nói rõ hơn, nhân điện dùng prana chỉ tác động lên hệ quả mà không hề đụng tới nguyên nhân.Bệnh vì vậy thuyên giảm, nhưng không được chữadứt.Prana là năng lực thiêng liêng trong vũ trụ; người chữa bệnh bằng prana thông thường chỉ là người truyền sinh lực này, là năng lực của trái đất.Nó đi xuyên qua người họ, hợp với năng lực của bệnh nhân làm kích thích người sau đủ tới mức họ có thể tống xuất bệnh.

Thái  Độ
Việc nhấn mạnh quá độ của con người vào bệnh tật được xem là không đúng theo quan điểm tinh thần, vì đối với linh hồn, thân xác chỉ là vật tạm thời, những xáo trộn, thay đổi của cơ thể chỉ quan trọng ở điểm là chúng đóng góp vào kinh nghiệm của con người thật, làm nó phong phú hơn.
Yếu tố quan trọng là nguyên nhân mà con người tạo ra mỗi kiếp, và rồi tới phiên các nguyên nhân này sinh ra bệnh tật, hoàn cảnh khó khăn, biến cố tệ hại hay đặt điều kiện cho một kiếp. Chính những nguyên nhân này là điều mà con người cần học cách đối phó, nhận biết chúng, truy ra hệ quả tương ứng; khi ấy, ta học cách giải trừ nguyên nhân bằng ý chí đã luyện tập chống đối lại.
Karma không phải là điều xẩy ra không thể tránh, không thể thoát, mà ta có thể can thiệp làm thay đổi, cũng như trong tương lai càng lúc sẽ càng có nhiều hơn việc các luật lớn thường xuyên được làm thay đổi. Thí dụ năng lực của niềm tin có thể khích động các năng lực cao làm trừ được bệnh hay giảm bớt nó.
Tuy vậy, việc đảo ngược về bệnh tật gồm bốn hành động sau:
● Xác định bản chất của nguyên nhân, là nó bắt nguồn từ đâu: vật chất, tình cảm hay trí tuệ.
● Tập những đức tính đối nghịch với nguyên nhân gây bệnh.
● Tập tánh vô hại - harmlessness để chặn không cho nguyên nhân thể hiện, và ngăn không cho tình trạng nặng hơn.
● Thực hiện những việc nơi cõi trần để sinh ra tình trạng mà linh hồn mong muốn. Chúng gồm có:
– Chấp nhận sự kiện là có bệnh.
– Chữa bệnh theo y khoa đương thời.
– Có ý niệm rõ rệt về kết quả, hoặc là một đời sống hữu dụng hơn nơi cõi trần, hoặc chuẩn bị cho sự tử.
Chuyện mà ai cũng có thể làm là xử sự theo hiểu biết của mình và giúp đỡ người khác với trọn khả năng. Không ai có thể cấm ta phụng sự như vậy, ngay cả khi ta ý thức giới hạn và mức hiểu biết ít oi nơi mình. Ta hãy tỏ lòng thông cảm, chỉ cho người bệnh thấy thái độ bất hảo, cách sống sai lạc, và thay đổi những cách biểu lộ tâm tình không có lợi. Điều khác là luôn sẵn sàng thay đổi quan điểm khi biết điều khác cao hơn, hay hơn. Trên hết thẩy là thương yêu tràn đầy ai cần sự giúp đỡ của ta, vì tình thương chữa lành trên cả ba cõi.

Hình Thể và Tinh Thần
Ý sau có thể khó hiểu và khó chấp nhận cho một số người, ấy là theo quan điểm tinh thần, hình thể là để cho phần tâm linh biểu lộ, là vận cụ được sử dụng mà không phải là chủ nhân do đó tuy hình thể cần thiết nó lại không quan trọng, và mọi chủ trương hay phương pháp nào đặt trọng tâm vào hình thể, thân xác thì không phải là cách nên theo cho ai muốn phát triển tâm thức. Vài điều lý thú có thể được suy diễn từ ý này.
Người trung bình sử dụng chính yếu năng lực tình cảm và phát triển các trung tâm lực (luân xa, huyệt đạo) nằm dưới hoành cách mạc hơn là ở trên, tùng thái dương (huyệt đan điền) của họ phát triển mạnh với năng lực tình cảm tuôn chẩy qua đó. Theo đường tiến hóa, con người dần làm linh hoạt các trung tâm lực bên trên hoành cách mạc nhiều hơn, như huyệt tim (tình thương), huyệt cổ họng (óc sáng tạo), huyệt giữa hai chân mày. Các huyệt trên này tương ứng với các huyệt dưới thành từng cặp, và năng lực thường đi vào huyệt dưới nay được nâng lên đi vào huyệt trên. Sự việc có nghĩa:
– Tiến trình chuyển năng lực từ dưới lên trên (thí dụ từ huyệt đan điền lên huyệt tim) ban đầu gây ra xáo trộn, lộ ra nơi thân xác như là bệnh.
– Ai chưa làm linh hoạt nhiều các huyệt trên mà chính yếu là sử dụng các huyệt dưới, thường có bệnh ở những cơ quan nằm bên dưới hoành cách mạc như bao tử, gan, ruột.
– Tương tự vậy, ai đã làm những huyệt trên linh hoạt và quen dùng chúng thường có bệnh bên trên  hoành cách mạc, dễ thấy nhất là bệnh tim, bệnh về dây thần kinh.
Đây chỉ là phác họa rất tổng quát, và ta còn phải kể đến những yếu tố như nhân quả, mầm bệnh sẵn trong đất không ai tránh được như ung thư. Nhân đây ra ngoài đề một chút, khi năng lực của huyệt xương thiêng (chủ về sáng tạo vật chất)  được nâng lên huyệt cổ họng (sáng tạo tinh thần), con người bớt quan tâm đến việc sinh con tức sáng tạo bằng thể chất, mà thiên về việc có tác phẩm tinh thần hơn, tức sáng tạo nghệ thuật, triết lý, sáng chế khoa học.
– Chú trọng vào mặt hình thể hay thân xác, hoặc các yếu tố vật chất thì không phải là phương thức cho người chí nguyện. Thay vào đó họ phải nhắm tới việc hòa hợp ba thể và tới mục tiêu là thành  đường kinh thanh khiết cho linh hồn. Thông thường sự hòa hợp này có được bằng cách:
● Lập hạnh
● Tham thiền và tiếp xúc với chân ngã (linh hồn)
● Sống đời phụng sự
Khi ba điều này được thực hành một thời gian lâu nhiều năm, nó sẽ dẫn tới kết quả không tránh được cho cơ thể, nên nói cho sát thì ta không cần quan tâm đến thân xác, các lực bên trong sẽ tự động mang lại thay đổi.
Cũng vì thể xác có vai trò thứ yếu nhìn theo mặt tâm linh, việc chữa lành thân xác không phải luôn luôn là điều tốt đẹp nhất nếu xét về tinh thần, và sự lo lắng chăm sóc thân xác không được xem là chuyện quan trọng lớn lao. Mục đích của việc chữa bệnh vào thời điểm này, ở mức tiến hóa hiện giờ của con người là giúp mang lại sức khỏe cho cơ thể, và ta phải không bao giờ làm ngơ khi được yêu cầu giúp đỡ về mặt thể chất, trí não hay tâm lý, dầu vậy ta cũng nên biết việc chữa trị thành công không phải luôn luôn  có nghĩa là hết bệnh, thân xác được trị dứt. Có khi điều ấy chỉ là việc đình hoãn kế hoạch hay dự tính cho người bệnh.
Thế nên chữa thành công có thể hàm ý là sự thay đổi thái độ sai lầm trong tâm, cách suy nghĩ sai lạc và cùng lúc để yên thể xác như nó đang là; khi đó, lời chỉ dẫn khôn ngoan và kiên nhẫn làm cho bệnh nhân tiếp xúc được với chân ngã của họ, nhờ vậy tái định hướng cuộc đời về những chân lý trường cửu. Khi khác, thành công là sự chuẩn bị đúng cách cho con người về sự Tử, nhờ vậy thoát sự đớn đau.
Nói tiếp về các lực đi vào huyệt, người đơn sơ chưa phát triển nhiều các huyệt bên trên,  lực trong người họ có sự giản dị, tâm lý không phức tạp thế nên họ dễ được chữa lành bằng nhân điện, cũng như nhân điện dễ chữa những bệnh dưới hoành cách mạc hơn. Cách tác động là prana người chữa hợp với prana người bệnh thành lực chung mạnh mẽ, trấn áp và đẩy lui được bệnh tạm thời khi ấy mà không trị dứt. Lối chữa này thuần vật chất và không phải là sự chữa trị tinh thần.

Mầm Bệnh và sự Nóng Sốt
Hiểu biết khoa học cho rằng vi trùng và các vi sinh vật là mầm bệnh, nguyên nhân gây bệnh nói chung là đúng, nhưng nó chỉ là vậy khi ta nhớ rằng thực ra chúng là hệ quả của nguyên nhân mà khoa học gia chưa đụng tới, cũng như các nguyên nhân này được che dấu kỹ trong quá khứ xa xăm.
Khi con người có sinh lực mạnh và nó tuôn chẩy tự do không bị cản trở trong người, mầm bệnh không có chỗ bám và ta không bị nhiễm trùng. Khả năng không bị nhiễm trùng và được miễn nhiễm với bệnh hay lây phần lớn nằm ở sinh lực một người, tức không phải do trí não, hay do năng lực tư tưởng, mà là sức sống trong cơ thể. Khi sinh lực này mạnh thì nó có sức bảo vệ, còn khi nó yếu thì cơ thể dễ bị nhiễm trùng.
Nhắc lại thì mọi chuyện trong vũ trụ đều là năng lực và không có gì khác. Mầm bệnh là một điểm của năng lực tích cực mà khi đủ mạnh tạo nên ảnh hưởng chung quanh, làm sinh ra các dạng biểu lộ nơi cõi trần. Tuy nguyên nhân là một, tác động của mầm bệnh nơi con người thay đổi tùy thuộc vào sinh lực trong đời họ hướng về đâu hay về chỗ nào trong thân xác, nó có thể phát ra như là lòng sùng tín bừng bừng hướng tới một tư tưởng hay một nhân vật, mà cũng có thể là nóng sốt cao độ trong cơ thể.
Ta liên kết nóng sốt với bệnh, nhưng nhìn về mặt khác thì nóng sốt còn làm thanh tẩy và loại trừ. Đó là năng lực quá độ làm thiêu hủy và khi đốt cháy sinh ra nhẹ nhõm và chữa lành, hiểu theo nghĩa là chế ngự được mầm bệnh, hay trường hợp khác mang lại sự tử. Khi nào có thể được và khi cơ thể đủ sức chịu đựng thì để nóng sốt diễn ra một thời gian là điều hay, vì đó là cách chữa của thiên nhiên đối với một số tình trạng bất hảo; nhưng làm vậy đòi hỏi phải theo dõi và giữ quân bằng với năng lực trong người. Nóng sốt do đó không phải chỉ là dấu hiệu cho thấy có vấn đề, mà tự nó còn có giá trị chữa bệnh rõ ràng.
Tình cảm thái quá là tương ứng ở cõi trung giới so với nóng sốt cõi trần, là dấu hiệu mầm dục vọng tràn lan và phải đối phó trước khi nóng sốt có thể giảm xuống. Sang phần trí, tương ứng là trí não quá linh hoạt, bay nhẩy không được kềm chế, rất bận rộn mà không đạt được thành quả nào. Trong thiên nhiên ý tương tự là ta có cháy rừng một khoảng đất rộng, ấy là cách thiên nhiên dùng lửa làm thanh tẩy đất, bởi sâu trong lòng đất có nhiều mầm độc mà chỉ có lửa mới có thể đốt sạch. Đây là một lý do khác để nên có hỏa táng, giữ cho đất được sạch, không nhiễm sự độc hại từ thân xác có bệnh chôn trong đất. Việc đốt rừng do chủ ý của người là điều khác cũng giúp cho việc thanh tẩy này.
Còn một hình thức bệnh khác và cách chữa cũng nên được nói tới, tuy nó không được xã hội nhìn như vậy, là tội phạm và nhà giam. Đầu tiên, con người dùng hệ thống công lý khi tội phạm xẩy ra, nhưng thường khi đó là ý muốn trả thù hơn là muốn có công bằng. Nay thử nhìn sự việc theo cách khác. Ai mắc bệnh truyền nhiễm thì bị cô lập để không lây bệnh sang người khác, và ai mất trí thì bị cầm giữ để họ không gây hại; nhưng chỉ cô lập những ai như thế thì biện pháp đó không chữa bệnh, mà thật ra còn phải có sự chữa trị của ai khỏe mạnh, sáng suốt với lòng thiện cảm.
Tương tự vậy, theo cái nhìn thiêng liêng người có tội là bị bệnh về mặt đạo đức, thế nên hậu quả tệ hại sẽ đến cho người có bệnh lẫn ai hành hạ bệnh nhân thay vì tìm phương thức cứu chữa. Vậy thì bệnh viện đạo đức cần được lập ra thay vì xây thêm nơi hành hạ, vì hành hạ chỉ làm ai có bệnh thành nặng hơn, và gợi nên trong lòng họ ý phục thù. Xã hội kết án tử cho ai làm kẻ khác bị tử thương. Luật định như thế nhưng dù rằng tay họ làm hành động, sự thực là không chừng ý chí kẻ khác đã thúc đẩy họ có hành động ấy vì vong linh xấu chế ngự họ.
Chuyện người đã khuất ám nhập người sống là điều có thực, và nạn nhân thường là ai có ý chí yếu hoặc có khuynh hướng tội phạm.Vong linh xấu xúi giục họ làm ác để vong linh trả thù luật pháp và xã hội mà họ xem là đã làm họ chết đi.Giải thích này nhiều phần không thuyết phục được cách suy nghĩ đương thời, bởi ta không thể lý luận với vô minh, và hiểu biết không phải luôn luôn khiến được vô minh chấp thuận. Ngày giờ sẽ tới cho việc đó và trong lúc này, nó được đưa ra cho ai sẵn sàng lắng nghe. (Xin đọc thêm chuyện Ba Người Lính, PST 65 chương 28).

Hai Cách Chữa
Ta không bàn về cách chữa bệnh thể chất vì đó không là chủ ý của bài, điều có thể nói là y khoa đương thời có nhiều trị liệu hữu hiệu cho các bệnh của thân xác. Về bệnh có nguồn gốc tâm thần, cách chữa hiện nay có thể ghi vắn tắt là chuyên gia tâm lý tìm cách khám phá các ẩn ức nằm sau triệu chứng, chấn động từ xưa, hệ quả chuyện đã lâu, hay nỗi sợ hãi ẩn trong kinh nghiệm đã có và làm con người như họ là ngày nay. Những yếu tố chi phối có thể truy ra từ tiềm thức bằng cách khơi lại quá khứ, rồi yếu tố nào là trở ngại lớn nhất, sinh ra vấn đề tâm lý được mang lên bề mặt của tâm thức với sự giúp đỡ, được giải thích một cách thông minh, liên quan đến bệnh đang có. Sau đó con người được làm cho hiểu biết về cá tính của mình, vấn đề của nó và cơ hội.
Tuy nhiên phương pháp tinh thần lại hoàn toàn khác. Nó làm ngơ vấn đề của cái tôi và việc đào sâu vào tiềm thức, vì tình trạng không tốt được xem như là hệ quả của việc không cảm biết linh hồn, thiếu sự điều khiển của linh hồn. Bệnh nhân được dạy không nghĩ tới chính mình, cảm xúc của mình, những ẩn ức, định kiến vàtư tưởng bất hảo, mà trụ tâm vào linh hồn, vào thực tại thiêng liêng bên trong hình thể, vào tâm từ. Đây là cách thay thế điều làm chủ từ trước tới nay, là diễn trình khoa học làm biến mất các khuynh hướngtâm lý sai lầm, mặc cảm không hay dẫn tới thái độ không đúng với cuộc sống.
Phương pháp này chót hết làm tái tạo đời sống tư tưởng, con người tập có chánh kiến nhờ thúc đẩy hay soi sáng của linh hồn. Nó đưa tới việc các định kiến, sầu não, ham muốn từ xưa gây trở ngại, tất cả đều biến mất khiến con người được tự do làm chủ diễn biến đời mình. Cách chữa bệnh như vậy dựa theo quan điểm của linh hồn và từ cõi của nguyên nhân, thay vì từ quan điểm của cái tôi và từ cõi của hệ quả.

Theo:
The Rays and the Initiations, A.A. Bailey