THẾ GIỚI THIÊN THẦN
Sharing the Light (Geoffrey Hodson)
Nữ Thần ở Nam Hải
Trong chuyến viếng thăm Indonesia của ông Hodson khoảng năm 1937, các bạn trẻ của chi bộ Thanh Niên tại Solo thuộc đảo Java có đặt một câu hỏi:
- Huyền thoại nói rằng biển Nam Hải ở đây có hai nữ thần khác nhau, một vị tên Njai Loro Kidul rất cổ xưa đã hiện hữu từ lâu cùng với tất cả những thiên thần khác, còn vị thứ hai tên KandjengNjai Loro Kidul nguyên là người thuộc hoàng tộc, đã chuyển sang con đường tiến hóa của thiên thần. Chuyện có phải là lịch sử hay là huyền thoại ? Hai thiên thần này thuộc loại tốt hay xấu ?
Truyền thuyết kể là vị nữ thần Njai Loro Kidul tới thăm vua trên dảo vài lần trong năm. Mỗi lần như thế có nhiều âm thanh lạ vang dội xẩy ra và có nhiều tinh linh theo hộ tống. Dân chúng rất sợ hãi khi tinh linh tiến trên đường vào núi. Điều này có đúng chăng ? Chúng tôi chưa hề nghe về việc đoàn hộ giá từ núi quay trở về. Vào dịp hôn lễ của con trai duy nhất rất được yêu quý của bà, nữ thần đòi vua phải cúng tế nhiều thuộc hạ, và nếu vua không ưng thuận thì sẽ có bệnh dịch bộc phát làm hàng ngàn người chết.
Truyền thuyết cũng nói chẳng những hồn phách của nạn nhân bị bắt đi, mà luôn cả thân thể họ bị mang về cung điện của nữ thần. Ai có vẻ như chết đi và rồi sống lại, thuật nhiều điều kỳ lạ về cảnh sắc trong cung điện và công việc họ bị bắt phải làm ở thủy cung của nữ thần, sâu thẳm trong lòng biển Nam Hải. Sự việc khiến trọn dân chúng trên đảo sống trong sợ hãi và có mê tín dị đoan.
Mục đích của chúng tôi là giúp dân chúng cởi bỏ những niềm tin lạ lùng này, làm cản trở sự tiến hóa của họ. Xin ông vui lòng nghiên cứu về các chuyện ấy.
...
Tôi đi xem xét bờ biển phía nam của đảo Java để tìm hiểu sự việc này, và kết quả là không thấy có căn bản nào cho niềm tin là có nữ thần đòi hỏi phải cúng tế sinh mạng người, hoặc phải có dâng cúng để làm cho dân cư được mạnh khỏe và sung túc. Nhằm gỡ manh mối cho chuyện xưa và ghi lại những sự kiện quan sát có thể đã sinh ra truyền thuyết, tôi khám phá là có bốn loại thiên thần ở đây.
– Thứ nhất là vị Đại Thiên Thần cai quản vùng này của thái bình dương với đông đảo thuộc cấp. Ngài là bậc rất cao cả, một đại thiên thần cõi vô sắc tướng hoàn toàn không liên can tới đường tiến hóa của con người, và là một thành viên cao cấp của hàng ngũ Thủy Thần, ngự trị vùng này trên trái đất. Có thể Ngài hoặc một nữ thiên thần đã là vị nữ thần Njai Loro Kidul lúc ban sơ. Bên trên ngài là vị Hành Tinh Thủy Thần, vị này lại là thuộc cấp của những đấng cao cả liên hành tinh và thái dương. Khó mà người thường thuộc mẫu chủng thứ tư, tức đa số dân trên đảo Java, có tiếp xúc gì với những đấng cao cả ấy.
Thêm vào sự cao cả và uy lực của ngài, vị Đại Thiên Thần của vùng biển thái bình dương ở đây, điểm đặc sắc là không giống như nhiều thiên thần khác, hào quang của ngài gần như có hình oval mà không hẳn vậy, vì nó nhọn ở trên và bên dưới. Bên trong vùng chói lòa này, hình thể vàng óng của ngài cao khoảng 20 m, chiếu sáng rực như mặt trời, chung quanh có những tia sáng trắng lóa mắt, một số tia phóng ra bên ngoài hào quang của Ngài xa đến mấy cây số.
Bên ngoài những tia tuyệt vời mầu sáng trắng bao quanh lấy hình thể và đường nét của hình, là một vùng mầu tím đậm có lẫn các tia trắng, và ngoài nữa có mầu xanh lục đậm, biến dần sang xanh lục nhạt rồi mầu vàng, có quầng sáng bao chung quanh trọn hào quang. Những mầu này luôn chuyển động như lượn sóng, mầu trắng uốn cong xuống đáy, mầu tím vươn lên chót cao v.v. trọn hình ảnh gợi ý rõ rệt về sự sống và chuyển động của biển cả. Hào quang quanh đầu trông như vương miện bằng ánh sáng vàng rực với chín điểm do những tia lóe lên trên tạo thành.
Nơi cõi hạ trí Ngài hiển hiện như là một vì Vua của biển cả. Hào quang của Ngài có hình cụ thể hơn ở đây, trông tựa như hình dáng và đường cong uốn lượn của một vỏ sò lớn; Ngài cầm ở tay phải một vương trượng. Trong khi tâm thức Ngài trụ ở những cõi vô sắc tướng, có vẻ như Ngài dùng hình thể này như là một thể tương đối thường hằng trong những cõi sắc tướng. Thể cho thấy rõ Ngài như là một vị Thủy Vương cỡi trên xe trông giống vỏ sò vĩ đại, lúc thì ở ngang mực nước phăng phăng lướt sóng, lúc thì cao trong không vượt bên trên vương quốc của Ngài. Có vô số các thiên thần nhỏ hơn, là thuộc cấp và trông giống Ngài, di chuyển không ngừng trên biển; có thể là một hay vài vị này với hình dạng thiên thần đã vào đất liền tới vùng Solo, và dân chúng ở đó thấy các vị, sinh ra truyền thuyết về nữ thần Njai Loro Kidul.
– Thứ hai, có một hình tư tưởng bằng tinh hoa chất thấy ở vùng này. Hình ở cõi trung giới có dạng nữ thần, trông tựa như một bà hoàng người Java, cao, mảnh dẻ. Trông hình thật cụ thể, với da sậm, có đường nét rõ ràng của nữ phái, chung quanh có ánh sáng vàng bao bọc. Hình biến mất khi tư tưởng tan loãng đi, nhưng có vẻ như nó xuất hiện theo giai đoạn rõ rệt, gần như là định kỳ, có lẽ là đáp ứng với các lễ tế tự (hàng năm tại Solo có việc cúng tế nhiều thú vật cho nữ thần Njai Loro Kidul). Bà và tất cả những đặc tính của bà là sản phẩm của hình tư tưởng con người tạo ra, cùng với lòng mê tín dị đoan.
– Có một nhân vật thứ ba tự mình tìm đến trong cuộc nghiên cứu này. Cô hết sức duyên dáng, thuộc hoàng tộc Soesoehuman của vùng Solo, nay chuyển qua đường tiến hóa thiên thần. Cô đã bắt đầu việc chuyển hướng từ lâu, nhưng chưa thể tách rời hẳn con đường của người vì còn nhân quả ràng buộc, nhất là với hoàng tộc. Gần đây cô sinh vào dòng tộc để trả các nợ ấy và nay được tự do hơn tuy chưa hoàn toàn thoát hẳn. Cô nhờ chúng tôi giúp đỡ, một phần để làm sạch những chất liệu còn nằm trong hào quang của cô rung động theo độ dài sóng của con người. Trông chúng như là một vùng sậm mầu, tựa như gấu áo của chiếc áo hào quang, phần khác là giúp thay đổi tư tưởng của hoàng tộc Soesoehuman về cô, sao cho họ đừng đau khổ chút nào nữa về cô và còn níu kéo cô trong tư tưởng.
Điều thú vị khi quan sát là khoảng nhỏ chất liệu trong hào quang cô còn rung động theo nhịp cũ khi hồi xưa là người, là nguyên do khiến cô bị cầm giữ lại trong nhân loại, nhất là với dòng tộc của cô.
– Cộng thêm với những nguồn có thể là nguyên do cho niềm tin lan tràn trong dân gian, ở sâu trong lòng biển gần bờ ở vùng này thuộc đảo Java có một tinh linh đen đủi, tựa như con sứa khổng lồ có nhiều hấp khẩu. Đây là tàn tích của huyền thuật thời Atlantic và có lẽ sinh ra do các nghi lễ có máu, và được nuôi dưỡng trong thời gian lâu khi nghi lễ tiếp tục diễn ra.
Tôi xin đưa những chứng cớ này cho các bạn trẻ trong chi bộ Thanh Niên, như là các điều có thể đã góp phần cho việc thêu dệt nên huyền thoại.
Về sau, tìm hiểu thêm tôi được biết là một cô gái trong dòng tộc này qua đời khoảng gần đây lúc 21 tuổi. Bệnh của cô có điều bí ẩn, và người ta không tìm ra được nguyên nhân nào có vẻ đã làm cô thiệt mạng. Dân chúng lập tức cho rằng vị nữ thần của biển Nam Hải đã bắt cô như là sinh mạng hiến tế cho thủy cung của bà ở đáy Ấn Độ dương. Sau đó nữa, tôi tiếp xúc với cô nhờ có hình của cô gái và xác nhận được quan sát ghi ở trên. Rất có thể là người thuộc dòng tộc đều đặn tái sinh trong đó.
Ở một kiếp trước, có vẻ cô gái này bị đau khổ nặng nề vì có cưỡng bức hôn nhân. Chuyện làm cô kinh sợ về tình dục và cũng khiến cô chống lại những tập tục khác trong dòng họ. Thế giới thiên thần, vì không có phái tính và về nhiều mặt khác hấp dẫn đối với cô, đã mở cho cô một lối thoát và cô chọn đi theo con đường này. Cô tự tử và từ khi ấy được vị thiên thần của biển Nam Hải giúp đỡ, đưa cô vào thế giới của ngài.
...
Một Kinh Nghiệm tại Java.
Trong số những kinh nghiệm về việc tiếp xúc và trò chuyện với các thiên thần tại đảo Java, chuyện dưới đây nổi bật vì nét độc đáo và khó quên của nó. Có khoảng sáu mươi đại thiên thần của ngũ hành bao quanh đỉnh của một ngọn núi cao, họp thành một vòng tròn bên trong, bên ngoài và từ từ vươn lên trên là vô số những thiên thần trong thiên nhiên thuộc những cấp nhỏ hơn và các loại khác nhau.
Đang có một bài ca được xướng lên, ta nhận ra được âm thanh rõ ràng. Đó là bài ca về tính duy nhất của mọi sự sống, với ý chính lập đi lập lại nhiều lần về sự hợp nhất giữa sự sống trong thiên nhiên, thiên thần và con người. Hai ý niệm này được phóng vang ra vào thế giới tình cảm và tư tưởng, lan đi nhờ âm điệu của bài. Cung bậc của bài ca tuyệt vời này của thiên thần đi từ giọng nam thật trầm đến giọng kim vút cao, thiên thần ở vòng trong giữ cho bài ca liên tục ở bốn giọng căn bản. Giọng thổ tượng trưng cho hành thổ, đặc tính của hành này và những sự thể hiện khác nhau của nó. Bài hát tượng trưng cho hành thổ qua âm thanh, mầu sắc và nói lên lịch sử của địa cầu, những giai đoạn nóng bỏng, sồi sụt hơi nước, nguội dần rồi đặc cứng, khối lượng vĩ đại của địa cầu, âm sắc căn bản của nó, tiềm năng bên trong, sức sống và tâm thức. Khi bài hát được xướng lên, ngọn núi bên dưới và ngay cả địa cầu dường như cũng hát, rung động theo một hợp âm trầm, vang rền, với những nốt mà thực ra là các hợp âm tương ứng với những trạng thái khác nhau của đất, ngọc, kim loại và đá. Các hành thủy, phong và hỏa cũng được tượng trưng giống vậy và diễn tả qua bài hát của thiên thần.
Hành hỏa, là giọng nam cao (tenor) đặc biệt đáng nói, liên kết tâm thức của ngọn lửa vĩ đại ở trung tâm địa cầu và qua đó với vầng thái dương. Ngọn lửa tiềm ẩn trong mọi vật chất được tượng trưng trong bài hát về hành hỏa bằng âm vang êm nhẹ, như mơ màng, thanh tú và diễm lệ không sao tả được; ấy là sự biểu lộ bằng âm nhạc tính năng động của lửa và các Hỏa thần.
Bài trường ca nói về nguồn gốc, bản chất và sự tiến hóa và tình trạng của hành hỏa cùng những hỏa thần, gợi nên lòng kinh sợ, có uy lực và mỹ lệ tới mức gây khiếp đảm. Nó được vang vọng bằng vô số âm và cường độ thay đổi khác nhau trong suốt thế giới của lửa và các hỏa thần. Trong khi ấy ở đâu đó vượt ra ngoài mà vẫn nằm bên trong nó là câu đáp êm nhẹ, dịu dàng, mơ mộng của lửa tiềm ẩn trong thiên nhiên. Điều lạ là ở mức tâm thức của kinh nghiệm này, âm lượng vĩ đại, uy lực và nét cao cả của nhạc cho lửa trong lòng đất và mặt trời không làm rối các âm vô cùng thanh nhẹ cho hành hỏa lẫn nhạc của những hành khác.
Nhạc của hành thủy cho thấy có đối chọi rõ ràng với nhạc của hành hỏa, và thỉnh thoảng ta nghe được hai bài ca này một phần trong đoạn chính nhấn mạnh sự khác biệt tự nhiên giữa hai hành. Sự chuyển động của những khối nước to lớn, các dòng thủy lưu trên biển, thủy triều, sông ngòi, thác và suối được diễn tả trong ca khúc về hành thủy, liên kết tâm thức với hành thủy trong thiên nhiên. Bài ca này cũng biểu lộ mọi giai đoạn của nguồn gốc, khi nước bắt đầu có trên địa cầu, sự tiến hóa và đông đặc, rồi nước chẩy trên thế giới. Người ta nghe, thấy và cảm, quả thật là kinh nghiệm được chiều sâu thăm thẳm diệu vợi của biển, vùng tuyết băng nam và bắc cực, những dòng sông vĩ đại, thác ghềnh, tất cả được tượng trưng bằng nhạc trong bài ca về hành thủy. Tiếng ầm ầm của thác Niagara và những thác hùng vĩ khác, tiếng gầm xoáy, tiếng nước trôi ào ạt của ghềnh nước bên trên và tiếng nước sôi sục hun hút bên dưới, cả hai cũng được nghe trong bài, luôn cả tiếng rì rào êm nhẹ hơn của những giòng sông và suối nhỏ bé hơn. Biết bao thủy thần của đại dương, hồ, sông và suối tham dự vào bài ca về hành thủy, với giọng nữ trầm (contralto) bên cạnh giọng nam trầm (bass) cho hành thổ và giọng nam cao (tenor) cho hành hỏa.
Hành khí được tượng trưng bằng các thiên thần hùng mạnh đứng bên trong của vòng trong, với vân tiên, thiên tiên, phong tiên và thiên thần bão bay lượn ngoài xa. Cao bên trên là đông đầy những phong tiên, còn thấp hơn là những tiên nữ trông giống như chim nhiều mầu sắc hát giọng cao, trong trẻo nhẹ nhàng, bài ca hành khí. Từ khắp mọi hướng không khí dường như tự nó đáp lại, làm như có biết bao giọng nói gần xa cất lên cùng hát, cho tới khi trọn bầu không khí tràn ngập âm thanh, rung động theo bài hát.
Bài ca về hành khí này, tuy tự nó có nét phong phú và diễm lệ, lại đôi lúc có vẻ như là lời ca chính mà hai bài ca hành thổ và hành hỏa phụ họa theo. Nước hòa hợp với nhau trong các phần khác biệt của nó, giữ cho mình phần nhạc trôi chẩy tuôn tràn riêng. Giống như các hành khác, hành khí có trong bài ca của mình ý chính về sự hòa hợp tâm thức trong thiên nhiên với tâm thức của người. Như vậy, mỗi nguyên lý trong thiên nhiên theo âm sắc và hình thức riêng của nó, được tượng trưng trong bản đại hòa tấu này của bốn hành.
Thiên thần hát với trọn bản thể của mình hơn là chỉ bằng miệng mà thôi. Nhạc phát ra từ bên trong hình thể của thiên thần như là sự biểu lộ bằng âm thanh, mầu sắc và hình dạng của bản chất nội tại của riêng các vị. Nó từ các thiên thần tuôn ra ngoài thành nghe được, thấy được với mầu sắc và hình dạng. Những hình kỷ hà theo chiều đo thứ tư và thứ năm, các hình khối sắc sảo hiện ra, nhiều mầu, do những đường lực tuôn chẩy tạo nên, đan vào nhau cho ra những hình phức tạp và xinh đẹp.
Chúng liên tục thay đổi cả về mầu sắc và kiểu, loại, mỗi biến đổi là biểu tượng cho cách biểu lộ và giai đoạn tiến hóa của bốn hành căn bản. Theo cách ấy, mỗi hành đóng góp vào bài ca mầu sắc và hình dạng biểu tượng của nó, là biểu lộ của công thức sáng tạo, hình nguyên mẫu của mọi sự sống và hình thể của mỗi hành, phóng chiếu vào cõi trí và tình cảm, sinh ra hình tư tưởng âm nhạc. Âm điệu, mầu sắc và kiểu hình tất cả hòa hợp, trộn lẫn vào nhau khi chúng tuôn ra từ hào quang của những thiên thần đứng ca hát.
Hình ảnh chung tổng hợp trông giống như một đồng hồ cát khổng lồ, hai đầu mở từ mấy tầng trời cao vút bên trên xuống tới sâu trong lòng đất. Phần thắt eo hẹp lại của nó ứng với đỉnh núi và vòng bên trong của thiên thần. Cả hai bầu trên và dưới có đường rãnh và trông giống như một bông hoa, với những cánh hoa không ngừng đan vào nhau, mầu sắc thay đổi luôn luôn, tựa như ánh sáng mặt trời trên áo lụa có gió thổi lay động phất phơ.
Tôi không thể nói là kinh nghiệm này kéo dài bao lâu, vì khi chìm đắm trong đó người ta mất đi ý niệm về thời gian. Tới một lúc nhạc trở nên trang trọng và có nét thỉnh cầu. Các thiên thần giơ cao tay lên trên đầu cho ra hình ảnh diễm lệ không bút nào tả xiết khi các ngài đưa mắt hướng về trời cao. Lực tuôn vào và đi xuống theo cái bầu bên trên của đồng hồ cát, và rồi chư thiên chậm rãi hạ cánh tay xuống vô cùng thanh nhã. Bài ca nay đổi thành khúc khải hoàn ca, với năng lực tuôn chẩy giữa trời và đất xuyên qua hai bầu của đồng hồ cát vĩ đại, thúc đẩy sự sống và tâm thức đang tiến hóa trong khắp cả bốn hành.
Geoffrey Hodson
Sharing the Light, vol. I.
(Xem Trọn Mục Thế Giới Thiên Thần)