BA NGƯỜI LÍNH
Kỳ 4 (PST 60)
Xem Ba Người Lính từ Trang Đầu Tiên trong Mục Sách Dịch
– Các anh nghe đây, giọng nói trong trẻo và du dương, nhẹ nhàng mà có uy lực, các anh đang tự hỏi mình đang ở đâu và chỗ này là chỗ gì. Tôi sẽ cho các anh hay, xin chú ý kỹ và chấp nhận những lời tôi nói với các anh mà đừng phản đối hay phê bình.
Có tiếng thì thào của các bệnh nhân. Ai nấy đều mặc quân phục Hoa Kỳ. Ông lên tiếng tiếp:
– Các anh đã tới chỗ mà chúng tôi gọi là Tổng Hành Dinh vì không có chữ nào khác hợp hơn. Đây là bệnh viện, không phải cho thân xác các anh, mà là cho trí não.
Lại có tiếng xì xào. Họ có ở trong bệnh viện tâm thần không ?
– Trí não là điều đã mang các anh tới đây.
Có vài người cười khi nghe vậy.
– Anh tưởng là anh mặc quân phục, có vũ khí, dây đạn và vật dụng cá nhân. Chúng chỉ là hình dáng bên ngoài vậy thôi. Chính các anh cũng là hình dáng bên ngoài. Bây giờ các anh là linh hồn, và hình dáng bên ngoài của các anh chỉ là ấn tượng anh có về mình, khi anh đột nhiên bị đẩy vào cảnh giới này.
– Cho tôi ly cà phê rồi tôi sẽ cho ông biết, có một giọng nói tướng lên.
– Chúng tôi không có cà phê còn anh thì không có bộ phận nào để uống.
Lời này làm bật nhiều tiếng kinh ngạc và hoảng hốt.
– Bây giờ anh không cần ăn và uống nữa. Anh đang ở trong thể tình cảm, và chuyện duy nhất anh cần để nuôi dưỡng mình là bầu khí mà nay anh ở trong đó, đang đi lại và có thể thanh của mình. Thân xác vật chất của anh đã bỏ lại trên bãi chiến trường rồi.
Cummings lắng nghe rất chăm chú, hăm hở. Anh bắt đầu ráp nối lại những gì đã đọc và nhờ lời của người đang nói, hiểu được chúng. Thì ra anh không có nằm mơ, tất cả là thực tại.
– Các anh luôn luôn có thể tình cảm này, nó nằm trong thể xác của anh và chỉ tách rời khi anh ngưng thở và dây nối cắt đứt. Chúng tôi, những người chăm lo cho các anh, là các linh hồn nguyện hiến mình cho việc săn sóc anh khi mất thể xác, và chỉ dẫn anh cách thích nghi với đời sống mới này.
Những tiếng than vãn, khóc lóc, và chửi thề bung ra như làn sóng. Một người lính trẻ kêu to:
– Chúng tôi bị giết chết để thành như vầy ư ?
Những người mặc áo xanh bắt đầu đứng lại với nhau như thể họ đối đầu với kẻ địch.
– Đa số các anh không có hiểu biết chuyện tinh thần, và không thể dùng trí tuệ của mình để tự giúp. Chúng tôi chỉ có thể giúp anh nếu anh chịu đặt mình vào tay chúng tôi và tin tưởng chúng tôi.
Một giọng nói – giọng Potter kêu to:
– Mấy ông nói láo và là quỉ dữ. Tôi là con Chúa Trời và mấy ông ngăn không cho tôi lên với Chúa Cha trên cao.
Potter đã nhẩy ra khỏi giường với mắt nẩy lửa, giọng vẫn còn nghẹn vì tiếng khóc, vì giận dữ, kinh hoàng và cay đắng. Tiếng cười nhạo báng của Hanson vang lên sau lời kêu to của Potter.
– Yên lặng ! Giọng nói của ông Thầy vang lên nghiêm khắc. Anh như hằng triệu người khác với tư tưởng ngu dốt và mù quáng đã làm cuộc sống, cả dưới thế và nơi đây, thành chuyện phí phạm vô ích. Mà tệ hơn nữa, nó là lời sỉ nhục những Luật Thiêng Liêng của Sự Sống.
Potter không để bị bịt miệng
– Tôi là người Thiên Chúa giáo và là tín đồ của Đấng Cứu Thế. Tôi là một trong những người được cứu rỗi.
– Cho hắn ngủ đi, Ransome. Hắn cần được nghỉ ngơi trước khi chịu nghe theo lý lẽ.
Hai hay ba người mặc áo xanh hợp lại với Ransome, và làm như nhờ sức mạnh của tư tưởng tập trung mà họ hợp lại, lời Potter chìm xuống thành tiếng phản đối thì thào; rồi anh ngả xuống giường và làm thinh; một lát sau làm như anh thiếp ngủ.
Sự việc này làm những ai còn lại lặng thinh và nay có vẻ như họ hết sức tò mò muốn lắng nghe. Họ có mức thông minh khác nhau và một số người làm như có thể hiểu rõ chuyện đang nói. Người khác như Hanson, nghĩ nó chỉ là chuyện nói đùa. Đa số người khác lắng nghe lạ lùng hoang mang.
– Bây giờ các anh không còn bị đau đớn nữa, và có thể sống mà không cần thức ăn hay phải đi làm kiếm tiền, hay phải lao động cực nhọc. Các anh phải dựa vào chính năng lực trí tuệ của mình để hiểu được đời sống bên này. Các anh đã trải qua kinh nghiệm cho ấn tượng sâu xa và kinh khiếp, các anh phải cố quên nó đi.
Một tràng cười chế nhạo vang lên đáp lại câu này.
– Phải, để có lợi cho chính mình, anh phải quên nỗi kinh hoàng đã vừa trải qua. Chúng tôi giúp các anh, nhưng các anh phải làm theo lời chỉ dẫn của chúng tôi, bằng không anh không thể giúp được chính mình. Anh đã tới cõi mọi người bình đẳng với nhau, nơi mà vị thế của một người được xác định bằng năng lực trí tuệ của họ. Anh nên nghỉ ngơi một lát và suy ngẫm về những điều tôi vừa nói. Hãy bàn luận với nhau và nhớ lại, nếu được, một vài chỉ dẫn ban đầu mà tôn giáo đã dạy anh. Nó có minh triết và sự thực trong đó.
CHƯƠNG X
Những ngày sau đó cũng giống như ngày đầu. Lính nói chuyện với nhau. Họ bắt đầu ý thức là làm như họ không còn cần phải ăn hay uống món chi, bởi ai nấy cảm thấy một nguồn sinh lực khác thường.
Có vài người cứ nghĩ đến một số món ăn ngon cho tới khi làm như họ tạo ra vật giống vậy trong trí mình, lại còn tin rằng mình đã ăn chúng. Đây chỉ là ảo tưởng nhưng rất thực đối với họ, tới nỗi họ khăng khăng với những người khác là đã ăn các trái cây và các món khoái khẩu của mình.
Ông Thầy Morton giải thích chuyện này cho họ nghe, và chẳng bao lâu hình ảnh và tư tưởng về thức ăn bắt đầu phai mờ khỏi tâm trí của ai một mực cho rằng những bữa ăn ngon lành họ tin là đã thưởng thức, là chuyện có thật.
Mỗi ngày Morton nói chuyện chung với trọn khối người, giải thích cho họ rõ đích xác là người nghĩa là sao. Ông phải bắt đầu như thể họ là con nít. Ai có học cao phải chịu theo mức độ của người khờ dại và kẻ ngu dốt, vì có nhiều người là kẻ dốt nát trong lực lượng Hoa Kỳ ở Âu châu; nhiều người trong bọn có thân hình tốt tướng đẹp đẽ mà trí tuệ lại như trẻ con. Bởi, hoàn tất nhiệm vụ của hàng binh sĩ không đòi hỏi có thông minh cho lắm ngoài việc học một số luật đơn giản, và ngay cả việc học những luật này cũng hoặc là tự học hoặc là bắt chước người lính khác.
Brainard đã tỉnh dậy và Cummings kể lại cho anh nghe chuyện gì xẩy ra trong lúc anh ngủ. Ông nội của Brainard có ghé qua thăm anh một hay hai lần trong chốc lát; công việc của ông là ra ngoài mặt trận đón nhận linh hồn của người lính nào tử trận. Trong những lần viếng thăm ngắn ngủi đó, ông thuật cho Gordon về việc làm của những người như ông, những ai do kinh nghiệm biết chiến tranh là gì. Ông giải thích rằng ngay cả trong trận Nội Chiến huynh đệ tương tàn, lúc chưa có y tá của hội Hồng Thập Tự, và hệ thống xe cứu thương chỉ mới manh nha, và khi bác sĩ ra mặt trận cưa tay chân dưới làn mưa đạn, không ai nghĩ đến những việc tệ hại như sống chui rúc trong hầm trú ẩn, hơi độc, hoặc việc giết người hằng loạt được cơ giới hoá. Ông nói với Gordon rằng khi thanh niên tại Hoa Kỳ được trưng binh cho cuộc chiến hiện tại, mỗi linh hồn đáng quí ở cả Nam và Bắc mà vẫn còn sống ở cõi trung giới, đã tình nguyện đi Pháp và giúp đỡ, trong việc tiếp dẫn linh hồn những thanh niên nào có số phần phải bỏ xác trong lửa đạn.
Trong những năm từ khi ông qua đời, thỉnh thoảng ông có ghé thăm nhà con trai. Thường thường ông thích đến thăm ngôi nhà do chính ông xây nên. Ông biết Carol và gia đình của cô. Ông có nghe đôi thanh niên nam nữ nói đến việc hứa hôn, và đôi khi thắc mắc việc họ đình hoãn đám cưới. Dường như ông cũng theo dõi công việc làm ăn của Gordon.
Chuyện lạ là người cựu chiến binh trông trẻ trung này của trận Nội Chiến lại có hiểu biết rất tân thời về thương nghiệp ngày nay và tình hình chính trị. Khi cháu nội của ông tỏ vẻ thán phục, ông mỉm cười và nói:
– Tại sao không kìa ? Lúc nào cũng có người qua đời, sang đây, kể cho chúng tôi hay về những biến cố hiện giờ và khuynh hướng của thời đại, những vấn đề mà dân chúng và chính phủ phải đối đầu. Bộ anh nghĩ là chúng tôi không còn quan tâm đến đất nước chỉ vì đang ở đây sao ?
– Nhưng đây là đâu ?
Brainard nói:
– Đây là cõi trung giới nước Pháp, trong vòng phụ cận của khu dành cho quân Hoa Kỳ. Mỗi nơi trên địa cầu có người hiện hữu thì có chỗ tương ứng bên cõi trung giới. Có nghĩa nó có linh hồn của những ai mà trong lúc sống ngụ ở phần đất ấy. Bởi họ nhất thiết phải tạo đời sống bên này theo cảnh sống duy nhất mà họ nhớ, và muốn ở gần con cháu mình, họ tạo nên cộng đồng tương ứng với cộng đồng trên mặt đất.
Cummings chen vào:
– Vậy là có địa lý của cõi trung giới hay sao ?
– Tôi nghĩ có lẽ vậy. Sau khi ở đây một thời gian anh có thể tới bất cứ nơi nào mà trí anh hình dung mạnh mẽ ra nó. Con người anh là tư tưởng được phóng chiếu ra ngoài. Khi anh học tập trung tư tưởng và tạo nên hình tư tưởng đủ mạnh, tâm trí anh, tức là anh, có thể di chuyển với tốc độ mau hơn ánh sáng. Anh có thể đến bất cứ nơi nào mà anh nghĩ ra được. Dĩ nhiên, tôi chỉ có thể đi lại trong xứ sở của tôi, vì tôi chưa hề ra ngoại quốc. Thành ra, tôi và những người khác như mình, phải qua Pháp bằng cùng phương tiện như lính được mang đi. Trên tầu chở quân của các anh có khoảng năm mươi hành khách vô hình đi theo sang Pháp.
Từng chút từng chút một, những linh hồn mới qua đời bắt đầu nắm được các nguyên tắc sinh sống ở cõi lạ lùng này. Họ càng suy nghĩ nhiều về nó chừng nào, chuyện càng hóa rõ ràng chừng ấy. Họ thấy rằng khi họ cố tâm muốn di chuyển, thì họ di chuyển. Có vẻ như đó là là sự biểu hiện đầu tiên cho luật mà nay họ bị chi phối.
Hanson hay đến chơi với hai người và tìm cách đùa cợt mọi chuyện. Làm như anh thấy là cả bọn đang bị phỉnh gạt, và sự thực chẳng bao lâu sẽ lộ ra khác hẳn. Không có thức ăn là điều phàn nàn bực mình nhất. Cũng như phải nghe Morton, và ráng làm những gì ông nói với bọn họ. Anh thấy cáu kỉnh.
Hanson sống đời thuần thú tính và khi thể xác mất đi, không còn giác quan như vị giác, khứu giác và xúc giác, hắn thấy đời không còn đáng sống.
– Chỗ này y như địa ngục. Không ăn uống, không rượu chè, không cờ bạc, và không có gái. Thế là thế nào ? Đàn bà cũng chết nữa mà, phải không ? Thế họ đâu rồi ? Từ khi tới chỗ này tôi chưa hề thấy cái váy nào. Làm như ở tù vậy. Chỉ có điều ở tù thì còn được chơi dã cầu và được ăn.
Cummings tìm cách giải thích rằng tâm trí hắn là tất cả cái mà hắn có để làm cho mình vui, và ai cũng thế. Tại sao không thử học lối sống bên nây ? Ít nhất có bạn học chung và mấy ông thầy nói là có nhiều cách để vui sống nếu mình làm theo chỉ dẫn của họ, và học cách làm việc với các luật quản trị sự sống ở nơi đây.
– Vậy sao ? Cứ cho lại tôi thân xác của mình rồi anh hưởng hết những thứ này đi. Tôi lấy lại y cái thân xác cũ là được. Lại còn sống vui biết mấy hồi đó. Đương nhiên là cực rồi, ngay cả trước khi có chiến tranh, nhưng tôi sẽ rất mừng được trở về cảnh cũ, nấu cà phê trong lon súp cà chua ở vệ đường, và hưởng sự sống như tôi sống khi ấy.
Hanson là tiêu biểu cho đa số người trong bọn, tuy có đủ mọi thành phần hiện diện về mặt xã hội, tâm trí và đạo đức. Họ thèm muốn đời sống xác thịt.
Potter vẫn còn ngủ. Cummings hỏi ông thầy người lo cho hắn và được nghe là những người như Potter là những trường hợp khó nhất cho họ.
– Chánh phủ mà chúng ta đang có hiện giờ là chánh phủ gì, khi những tư tưởng lạ lùng có thể được người có đủ giáo dục, biết đọc sách – như người này theo tôi hiểu –, tin theo chứ ? Chúng tôi có hằng triệu người ở cõi này, vất vưởng lang thang mong được gặp thần thánh riêng tư, rồi khi chúng tôi tìm cách giải thích với họ những sự thực về đời sống bên này, họ lại gọi chúng tôi là quỉ dữ, là ma quái và bảo chúng tôi ngăn không cho họ gặp Chúa Trời, không nhận được phần thưởng mà họ được hứa hẹn. Tôi tin họ nghĩ là những phần thưởng ấy là dinh thự xây bằng quí kim cẩn châu báu xinh đẹp. Những người này mong chờ là họ sẽ được chọn làm kẻ thân cận của thần linh, đấng chỉ đòi hỏi họ dành cả ngày hát xướng và chơi thụ cầm, ca ngợi thần linh mãi mãi (ghi chú: đây là niềm tin của một số tín đồ Thiên Chúa giáo). Chúng tôi làm gì được với những người như thế ? Những nhà lãnh đạo nghĩ sao mà cho phép có diễn giải kinh điển đông phương theo nghĩa đen như vậy ?
Cummings hiểu lời chỉ trích này có nghĩa gì.
– Cái đó là để khiến người nghèo và suy nghĩ đơn sơ được yên lòng thì dạy là họ sẽ được giàu sang, chẳng phải làm lụng cực nhọc, và nhất là được dành riêng để có đặc ân trong đời sau. Lời dạy đó có sự khôn ngoan thường tình ở đời.
– Nhưng họ tưởng tượng ra cảnh thiên đàng của người duy vật ! Ai cũng giàu sang.
Đôi khi Morton ghé qua và nói chuyện với Cummings và Brainard. Hai anh tượng trưng cho mẫu người hiểu biết trong tập thể những linh hồn này, với thân xác trẻ trung của họ vừa mới bị sát hại. Morton nhờ hai người làm hết sức mình để giúp Hanson, xem ra anh không thể hiểu hay chấp nhận lời chỉ dẫn cho cả bọn.
Cummings thấy mọi việc diễn ra theo một luật rõ ràng. Anh cảm nhận được chân lý của các nguyên lý xưa, của ngụ ngôn, thần thoại, chuyện và lời dạy trong kinh thánh Thiên Chúa giáo và những tôn giáo mới cũng như cũ. Anh thấy nó xác nhận những lời của đức Chúa như ‘Ta với Cha Ta là một’, và ‘Ai yêu quí ta cũng sẽ yêu quí Cha trên trời’, và ‘Ở đâu có hai hay ba người tụ lại trong danh ta thì có ta ở cùng với họ’ và v.v. Nó là tính phổ quát của Trí Năng. Và tình thương hay được đề cập tới trong Kinh điển muôn đời là nguyên lý sáng tạo.
Brainard không nắm vững cách sống ở cõi bên này mau như vậy. Tư tưởng anh hướng về Carol. Có thể anh nghe và hiểu, nhưng ký ức lôi kéo không cho anh suy ngẫm về những bài học này; và trong giờ phút suy tư về những gì họ đã được dạy, thời gian mà giảng viên đã dành riêng để người ta chú trọng vào lời giảng của họ, trí anh bay đến Carol, hình ảnh nàng chiếm trọn ký ức của anh.
Anh không tha thiết mấy về đời sống mà nay đã bước vào. Anh phải chịu vậy, nhưng nó không cho sự hào hứng, hy vọng, cơ hội để vui thú hay biểu lộ như anh tưởng tượng về tương lai của mình ở cõi trần.
Chết chẳng đi tới đâu cả !
CHƯƠNG XI
Khi có người tới đây, những ai bị tử trận trên chiến trường Cummings nhìn ngắm họ để khám phá xem ai có thể có ý tưởng rõ ràng về trạng thái mà anh ta đang bước vào. Luôn luôn có một hay hai người đã có chuẩn bị phần nào cho đời sống sau khi chết. Đây thường là những tín đồ mà tôn giáo đã giải thích cho họ về cõi luyện tội, nơi mà linh hồn trải qua cho tới khi nó quen với cuộc sống mới. Những người này lặng lẽ chấp nhận lời giảng cho họ, và có vẻ hiểu được bài học dạy cho họ. Cummings cũng quan sát thấy đó là những người chẳng bao lâu sau rời Tổng Hành Dinh. Anh không biết họ đi đâu.
Brainard làm như mất thói quen là lợi dụng tối đa mọi việc, và đâm ra chán chường mọi việc. Anh không màng hoặc để tâm rất ít tới ai. Khi Cummings ráng thúc đẩy anh, nói về những chỉ dạy đưa ra cho họ, hoặc đi kết bạn, Brainard thờ ơ và tỏ ra chán nản với những gì Cummings nói, rồi quay trở lại tính ơ thờ như trước.
Những trường hợp hung bạo nhất là ai sợ hãi không muốn đối đầu với sự kiện là họ đã qua đời. Họ làm rầm rĩ lên, chửi rủa các giảng viên và ông Thầy, Morton. Họ không hề được nói cho nghe rằng cái chết thực sự là sao, ngay cả ai có nhiều học thức.
Không ai có chút ý niệm gì về đời sống sau khi chết thực sự là như thế nào. Hoặc họ giống như Potter là có hiểu lầm về tôn giáo về lời hứa ghi trong Thánh kinh, hoặc chắc bẩm rằng chết là không còn tri thức.
Morton thỉnh thoảng chê trách thậm tệ những ai có thẩm quyền trên trần ở đại học, chính phủ, và ngay cả giáo hội, về việc họ từ chối không nghiên cứu đời sống sau khi thân thể chết đi, hoặc chuẩn bị người ta để tiếp tục sống sau khi rời bỏ thân xác.
Rất hiếm có ai có thể hiểu và chấp nhận là nay họ phải tùy thuộc vào năng lực trí tuệ của mình, tuy ông Thầy nói rõ là người như vậy có thể rời Tổng Hành Dinh và bước vào đời sống có tính xây dựng.
Cummings tự hỏi đời sống có thể là sao ở bên này khi không có vật chất, thương nghiệp có tổ chức, và cơ thể không còn những giác quan của thú tính như vị giác, khứu giác và xúc giác, chỉ còn lại thính giác và thị giác. Điều gì có thể thay thế cho những quan năng của cơ thể, những điều mang lại 3/4 sự vui sống trên trần ?
Anh cảm thấy rõ là ai bình tĩnh chấp nhận cuộc sống này như là một phần của sự hiện hữu của họ, thì không cao hơn, sáng láng hơn ai khác. Họ biết; đó là điều khiến họ có lợi thế.
Trong suốt thời gian này Brainard chìm trong sự sầu não mà không gì vực anh ra khỏi đó được. Trí anh bị ràng buộc vào quá khứ. Anh chìm đắm vào ký ức những ngày anh có hạnh phúc, giờ niềm hạnh phúc duy nhất mà anh ước ao là được ở cạnh Carol.
Tội nghiệp cho Carol ! Bây giờ cô phải bắt đầu một cuộc đời mới, khác xưa. Hoặc cô phải quên anh, và trọn những gì đã mơ tưởng về hai người như là chồng vợ, và đi tìm tình yêu mới, hoặc chấm dứt đời mình trong sự cô đơn lẻ loi, nuối tiếc cay đắng. Anh đã làm cô đau khổ. Anh biết cô sẽ thần thánh hoá kỷ niệm của anh thành sự hy sinh vì nghĩa vụ; hoặc không chừng nghĩ đến anh như là nạn nhân của quái vật chiến tranh đang nghiến ngấu một thế hệ trai trẻ của địa cầu.
Dù anh nghĩ ra sao về cô, nó đều dẫn tới ý thức là anh đã ích kỷ, vô ý tứ và ngu dốt. Anh hoàn toàn không xứng với tình yêu của cô. Anh đã bỏ rơi cơ hội để có hạnh phúc, và nay anh ở trong cảnh giới này, phải ở vĩnh viễn trong cảnh bị mất cô.
Chuyện anh có học vấn về kinh doanh giờ có ích lợi gì ? Ở chỗ này anh làm được với hiểu biết về thương mại ? Nội việc được tỉnh thức cũng đủ rầu rĩ rồi. Phải chi trọn con người của anh tan rã thành cát bụi, như thể xác của anh, thì có phải là hay hơn không ?
Anh không hề ước muốn học hỏi cảnh sống cõi trung giới, tên mà ông Thầy gọi nó. Theo anh hiểu thì nó chẳng đáng công. Học thì có lợi gì cho anh chứ ? Ông nội anh có đây, nhưng ông là người lạ, và luôn luôn bận rộn, mang về những người lính chết.
Trọn những bài học giáo lý ngộ nghĩnh mà anh nghe hồi còn nhỏ thấy như toàn chuyện vô nghĩa, dốt nát. So với đời sống thực sự sau khi chết mà người ta gặp phải thì nó như trò đùa !
Potter chưa tỉnh dậy, nhưng Hanson luôn luôn có mặt. Anh không hề nhút nhát, mà hết sức tự tin vào khả năng của chính mình, anh là mối bực mình lớn lao cho người chung quanh, những ai đang gắng học cách sinh hoạt của sự sống ở cõi xa lạ này.
Hanson sống trong quá khứ. Anh kiếm được vài người nữa cùng trình độ như anh và chọc cười họ với chuyện tiếu lâm thô lỗ của mình, chuyện tục tĩu, và chuyện về quá khứ oai hùng của anh, trong đó anh luôn luôn thắng thế so với những công dân biết tôn trọng luật pháp hoặc câu nệ khác và thách thức giới hữu trách. Nhóm ít người chăm chú nghe Hanson, cho anh sự ngưỡng mộ mà anh thèm muốn, hoan hô thái độ thách thức luật pháp và trật tự của anh, và nuôi dưỡng lòng tự kiêu của anh ở mọi mặt.
Anh hay nói:
– Sống ở đây đâu có đáng, nhưng nghĩ kỹ thì nó cũng có phần khá hơn đời sống vừa rồi. Như sống mà khỏi phải đi làm. Phải chi bây giờ có bộ bài thì vui biết mấy.
Và ba người bạn đồng đội Cummings, Brainard cùng Hanson trải qua thì giờ như vậy.
Khi nào Morton nói chuyện với họ thì cả ba phản ứng theo khả năng trí tuệ khác nhau của mỗi người. Hanson chẳng để ý chút gì đến những lời này, trừ phi anh thấy có cơ hội chọc cười đám chúng bạn hùa theo với anh.
Brainard nghe mà không thể dừng tư tưởng khỏi chuyện của mình đủ để học được gì từ những chỉ dạy này. Dầu vậy anh ý thức là tất cả tùy thuộc vào nỗ lực trí tuệ riêng của anh.
Cummings là người trước hết khởi sự áp dụng những ý tưởng này. Anh làm thử lần đầu tiên khi trời tối, vì ngày và đêm nối theo nhau y như cảnh đời trước. Có vẻ như họ vẫn còn nối liền với trái đất, và sự xoay vần của nó sinh ra ngày đêm. Anh muốn xem mình có thể đi ra ngoài chỗ này, nơi như là bệnh viện mênh mông cho các linh hồn và đi tới chỗ mà anh biết rõ nhất trên đất Pháp – tức hầm trú ẩn của đơn vị anh. Anh đã khắc sâu trong ký ức không xóa nhòa được từng chi tiết của nơi đây.
Morton đã nói là hễ mình có thể nghĩ tới bất cứ nơi nào thì mình sẽ có thể ở nơi đó, nếu mình có thể tụ đủ năng lực tư tưởng.
Sau vài lần làm thử, gần như anh sợ là mình sẽ thành công, anh nằm tưởng tượng ra hầm trú ẩn và ngạc nhiên thấy có một cảm giác nhẹ, không phải là thể chất mà trí năng, và thấy mình đứng trước hầm trú ẩn.
Kia là Goestch nằm trên giường, nhưng không thấy ai khác trong đơn vị anh. Cố nhiên anh biết Flanagan đã bị thương và hẳn đang ở trong bệnh viện. Nhưng anh chàng nhỏ con Rosenberg, anh chàng đáng tội ấy đâu rồi ? Hàng giường tầng có đầy người lạ, trừ giường của Chris Goestch. Anh thấy trong lòng dâng lên ý tội nghiệp cho những chàng trai đáng thương ấy, trẻ biết chừng nào, sung sức biết bao, bất lực biết mấy trong cái bẫy chiến tranh này.
Anh thấy ba lô cũ của anh vẫn còn treo trên móc. Họ đã làm gì với thư từ của anh, khoảng sáu lá thư của Doris mà anh nâng niu quí chuộng ? Anh thật là dại khi gìn giữ những lá thư ấy ! Nghĩ tới việc có những cặp mắt khác ngoài anh đọc những lá thư này làm anh muốn ốm. Anh biết vài người thô tục có những suy diễn xấu về bất cứ chuyện gì liên hệ đến phái đẹp, và câu viết nhậy cảm của Doris sẽ làm mồi cho óc tưởng tượng thô bỉ của họ.
Anh thấy vài món sở hữu của anh nay đã được người khác lấy xài – bộ đồ cạo râu, bộ giấy bút của anh. Thôi, bây giờ anh chẳng còn sở hữu vật gì ngoài trí tuệ.
Anh đi ra, vào giao thông hào và nhìn mấy quả đạn thỉnh thoảng nổ tung trong không hoặc đâm xuống đất. Anh thấy mấy người lính gác. Sao không thử đi qua giao thông hào của phe Đức cho biết ?
CHƯƠNG XII
Cummings đi ngang qua đất bùn về phía phòng tuyến của Đức. Anh đi tới hàng dây kẽm chăng ngang và băng qua nó không cảm thấy có đụng chạm gì. Anh chỉ biết có nó vì có những mảnh vải rách móc dính vào dây và lay động trong gió – ngọn gió mà anh không thể cảm nhận.
Nhưng anh cảm thấy tự do biết bao !
Giầy anh, tuy chúng trông lấm bùn như hồi nào đến giờ, có vẻ không có đất sét dính cục bám vào. Anh bước đi dễ dàng làm như đi ngang qua một sân quần vợt tráng bằng phẳng, mà lại không có cảm giác là đụng mặt đất. Anh không còn cảm thấy mùi ẩm của đất ướt cộng thêm mùi thuốc nổ và mùi của thịt rữa. Anh bắt đầu thích với việc không còn bị ảnh hưởng của giác quan.
Trí anh làm như sáng suốt hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy mình có đầy sinh lực làm anh ngạc nhiên. Như vầy có nghĩa là chết à, thấy có sức sống và năng lực nhiều hơn khi anh ở trong thể xác hay sao ? Thị giác của anh cũng sắc bén hơn và anh thấy mọi vật hết sức rõ ràng, gần như là phóng đại. Mà không thấy có gì mới lạ. Bầu trời u ám với mây giăng thấp, mặt đất, liền lạc và lỗ chỗ, những mảnh cây và kim loại rải rác khắp nơi, và đây đó có mảnh quần áo, một phần cái nón, một miếng của dây lưng bằng da hay túi đạn.
Bây giờ anh có thể nghe tiếng của lính gác Đức khi họ đổi phiên. Anh đi tới trước và đứng nhìn xuống giao thông hào của phe địch. Ai không có nhiệm vụ hẳn đang ngủ, tất cả chìm trong giấc mê man mà Trời ban, sự nghỉ ngơi duy nhất ngoài cảnh chán chường trong những giờ phút họ thức tỉnh.
Anh leo xuống đi vào giao thông hào và đi tới người lính gác. Anh ta không tỏ vẻ gì là thấy anh, làm như anh không biết là mình không có đơn độc. Cummings tự hỏi khu vực của bọn anh thỉnh thoảng có khi nào có khách như anh không.
Anh nghe tiếng ngáy của những người mệt mỏi trong khu dưới đất của họ. Anh lại còn đi vào cả hai hay ba khu như thế và đứng giữa những người lính ngủ say. Giết những thanh niên này thật tội biết bao ! Trẻ quá chừng, đa số bọn họ, trông họ như các nam sinh.
Anh để ý thấy mấy bức ảnh dán trên tường. Đây đó có nhiều vật kỷ niệm. Cây thánh giá. Kế đó là bức hình một nữ tài tử hay ca sĩ phòng trà được ưa chuộng, cắt trong báo ra. Có lẽ. Rồi có ảnh bưu thiếp của thị trấn hay làng hay cái hồ. Những người này không ngượng ngùng bầy tỏ tình cảm của họ. Họ không nhút nhát về cảm xúc của mình khác với người Mỹ; ít nhất họ có thể bầy tỏ cảm xúc sâu kín nhất trong lòng, và trưng nó ra ở nơi mà bạn đồng đội có thể bàn luận. Có lẽ không có ai như Hanson ở đây. Có lẽ những người này có chung tâm tình và trình độ.
Trời sắp sáng rồi. Ánh sáng xám nhạt đang dần len vào trong giao thông hào khi anh đứng giữa những người đang ngủ. Một thanh niên thức giấc la lên tiếng ngắn như là tiếng của một trẻ nhỏ, ngồi dậy, nhìn quanh quất bạn đồng đội đang ngủ, và rồi, với tiếng thở dài thườn thượt như là tiếng rên, thụp xuống mền như thể muốn ngăn chặn ban mai đang tới.
Nay Cummings có vấn đề là làm sao trở về Tổng Hành Dinh. Liệu anh có thể quay về dễ dàng như đã đi không ? Anh bắt đầu hiểu là phải làm cái trí lặng yên, không cho nó có những tư tưởng buồn rầu và xáo trộn tràn ngập trong chỗ địa ngục rầu rĩ này mà anh biết quá rõ. Anh phải tĩnh lặng; nhưng làm sao làm được khi dường như có nhiều đạn pháo khai hỏa hơn bao giờ hết ? Anh phải nằm xuống. Anh thấy ngộ nghĩnh khi nhìn vào những người trước đây là kẻ thù của mình, và tự hỏi họ sẽ nghĩ sao nếu biết có chú lính Mỹ đang ở trong phòng tuyến của họ.
Tuy ráng hết sức nhưng anh không sao tập trung tư tưởng. Trí năng của anh dường như kiệt lực và anh không thể có chút năng lực trí tuệ nào.
Nếu anh bị tách lìa với những linh hồn mà anh đã rời họ ban nãy thì sao nhỉ ?
Chuyện gì sẽ xẩy ra cho anh nếu anh không thể trở về ? Tư tưởng thật đáng sợ.
Làm như anh đang nằm trên sàn của hầm trú ẩn phe Đức, nhưng anh không chắc. Trí anh bị hoang mang. Anh muốn bỏ đi nhưng ngặt là chỉ có thể nghĩ tới hình ảnh những điều vừa thấy.
Đột nhiên có một vầng sáng đi vào nơi đây, một cột ánh sáng giống như đã thấy hôm anh chết. Anh có thể thấy rõ hình người trong đó, một người đàn ông cao, đẹp, mặc quân phục binh nhì Đức. Người này thấy Cummings và khựng lại. Anh ta đứng nhìn xuống Cummings trong một chốc. Rồi anh mỉm cười, vì nhận ra đó là một linh hồn đi lạc vào phòng tuyến của bên khi trước là kẻ địch của mình.
Khi Cummings thấy nụ cười, anh làm gan nói tiếng Đức mà anh còn nhớ, vì hồi năm 1912 anh có qua Đức ở chơi mùa hè. Anh ráng giải thích sự hiện diện của mình, và nói rằng anh đang tìm cách làm tĩnh lặng cái trí hầu có thể trở về chỗ những linh hồn mà anh đã rời họ để tới đây.
Người đàn ông mỉm cười.
– Anh coi, anh ta nói bằng tiếng Đức, chúng ta y như nhau, sống hay chết.
– Phải, thấy chúng ta như nhau.
– Anh ở quân đoàn nào ?
Cummings cho người này hay.
– Có thể anh phải ở lại đây cho tới khi chúng tôi lâm chiến. Rồi mấy linh hồn bạn của anh sẽ tới đây để tìm người bị tử trận. Khi đó họ sẽ giúp anh.
– Trời đất, tôi phải trải qua địa ngục đó nữa sao ?
Làm như anh không thể nào đối đầu với nó được nữa, sau khi đã sống trong sự bình an và yên tĩnh ở Tổng Hành Dinh.
– Chẳng bao lâu nữa súng sẽ khai hỏa và có tấn công. Anh không phải chờ lâu. Người phe chúng tôi sẽ bắn trúng đích.
Nụ cười của anh ta nhấn mạnh thêm hàm ý của câu nói.
Người này có ý gì khi nói như vậy ? Bộ anh ta vẫn còn hiếu chiến hay sao ?
Có vẻ đúng thế, vì bây giờ anh ta kêu to bằng một giọng ra lệnh nghiêm khắc:
– Dậy, các anh ! Hãy mạnh mẽ và đẩy lui quân Mỹ ngày hôm nay. Dậy, và hãy mang vinh quang về cho Tổ quốc !
Anh ta đi sang nơi khác. Cummings đứng dậy men theo. Anh thấy cột ánh sáng đi mất vào hầm trú ẩn kế bên. Lời anh ta nói liệu có thể thâm nhập vào trí não của những người đang ngủ chăng ? Nếu có, thì cả người sống và người chết đều một ý muốn có tàn phá. Bộ không nơi nào có hòa bình ư ?
Trong tâm thức mình anh luôn luôn hiểu đúng ý nghĩa của chiến tranh – nó là linh tính sơ khai được tinh luyện kỹ và vượt ra ngoài phạm vi tự nhiên trong thời đại này, theo đó con người phải thấy mình hủy hoại một cách máy móc trong đa số trường hợp, và không có cơ hội nào để tự bảo vệ chính mình bằng sức lực của bản thân.
Làm sao có hòa bình trên mặt đất khi ngay cả linh hồn dùng năng lực duy nhất của mình, là tư tưởng gợi ý, để tác động lên cái trí vô thức của người đang ngủ, thúc đẩy tinh thần họ ? Làm vậy để chi ? Cuối cùng thì ai có lợi ?
Nay anh ở trong vùng giữa hai phòng tuyến. Anh biết là bất cứ lúc nào đây sẽ có lệnh xung phong.
Phía quân Mỹ đang bắn ra một tràng đạn.
CHƯƠNG XIII
Flanagan mừng là được ở trong nhà thương. Anh bị thương nặng, lại rất có thể là bị khập khiễng cả đời, nhưng ít nhất anh đã thoát được chuyện lính tráng.
Anh ở trong khu mà Carol Carlisle là một trong các cô điều dưỡng. Carol chưa biết là Gordon thuộc những người bị tử trận, và bởi chưa nghe tin gì, cô tin là anh còn sống và nằm trong số người may mắn trong những ngày cuối của cuộc chiến. Cô biết Flanagan thuộc đại đội của anh, nhưng không biết là Flanagan ở cùng hầm trú ẩn với Gordon.
Flanagan cũng không biết mối liên hệ của cô gái này với Brainard. Cả anh và Brainard chẳng hề trò chuyện với nhau. Người này không biết gì về đời tư của người kia. Flanagan chỉ biết rằng Brainard là có học cao hơn anh, và trong đời thì Brainard có địa vị xã hội và thương nghiệp cao hơn anh. Điều này làm anh thư ký dược phòng nhậy cảm nhỏ con ít nói lại.
Nay nằm trong bệnh viện Flanagan nghĩ đến tương lai. Liệu anh làm việc được nữa chăng khi đi khập khiễng ? Công việc của anh bắt buộc phải đi lại luôn. Bây giờ không chừng anh phải dùng gậy. Thôi, tới chừng đó hãy hay.
Mới đầu chán ngán quá anh không suy nghĩ được. Nhiều ngày khi có nóng sốt, anh nằm dật dờ mơ mơ tỉnh tỉnh. Khi cơn sốt qua, đau nhức ở vết thương làm anh tỉnh hoàn toàn, rồi anh nằm nghĩ ngợi về công việc của mình, về Molly sẽ nghĩ gì khi anh được mang về nước với thân hình không toàn vẹn. Nàng có thể xấu hổ một chút với anh chồng khập khiễng – nhưng nói cho cùng thì anh là anh hùng đối với nàng. Tất cả những ai bị thương tích khi chiến đấu dưới cờ đều là anh hùng.
Tới đây anh bắt đầu ngẫm nghĩ có phải anh chiến đấu cho lá cờ hay không. Chà, dù nó là gì đi nữa, anh cũng nằm trong số những ai còn sống được trở về, và có lẽ Molly sẽ hãnh diện là chồng mình đã làm tròn bổn phận với quốc gia. Có nhiều người trong lực lượng Hoa Kỳ tại Pháp không được may mắn như vậy; lắm người bị thương mà chết và một số người có thân hình bị tàn phá đến nỗi tốt hơn đừng nghĩ tới.
Anh ráng nghĩ về chuyện của anh mà thôi và quên hết mọi việc khác. Thêm một tuần nữa thì anh có thể ngồi dậy và viết cho Molly. Trong thư anh chỉ nói sơ qua việc đau đớn, nhưng làm nàng hiểu rằng rằng nàng sẽ có người tình đi khập khiễng. Anh cũng nói đến việc dùng nạng nhưng trấn an Molly là nó chỉ tạm thời.
Wilfred Brandon
We Know These Men
(còn tiếp)