ĐỜI HUYỀN BÍ CỦA BÀ BLAVATSKY

Đời Huyền Bí của HPB  (tt) 

The Esoteric World of Madame Blavatsky - Daniel Caldwell

 

Xem Mục ĐỜI HUYỀN BÍ CỦA BÀ BLAVATSKY

Qua hôm sau tôi được giới thiệu với bà Blavatsky, là phụ nữ to lớn ngồi cạnh tôi tối qua. Lâu về sau này bà kể tôi nghe rằng việc bà đến là hoàn toàn bất ngờ, và điều bà rời Paris chỉ được thu xếp ‘theo lệnh’ nửa giờ trước khi ra đi. Bà đến trạm Charing Cross mà không biết chỗ họp là ở đâu, chỉ biết mình phải tới dự. Bà bảo tôi, ‘Tôi đi theo cái mũi huyền bí của mình’, và bằng cách ấy bà đi từ trạm tới Lincoln’s Inn, cuốc bộ tìm đường tới phòng họp.
Chuyện bà đến thực hết sức may mắn, vì nó làm ngưng buổi họp không chịu ôn hòa cho dù ông Olcott ráng sức hòa giải.

15d William Q. Judge
Tháng 5.1884 - Enghien, Pháp.

Mùa xuân 1884 HPB ở tại đường Notre Dame des Champs, Paris. Bà viết sách mỗi ngày, trừ phi thỉnh thoảng hôm nào đi xe chơi một vòng hay ra ngoài thăm viếng. Nhiều khách thuộc đủ mọi giai cấp đến gặp bà liên tục, và trong số người khác có nữ bá tước d’Adhémar, cho hay có lòng quí chuộng sâu xa HPB và mời bà đến ngụ tại lâu đài của bá tước tại Enghien. Ở đó HPB được cho hai phòng lớn ở tầng trệt, còn những người khác ngủ trong các phòng ở tầng trên. Bà được cho mọi tiện nghi và tiếp tục viết ở đó.
Một bên nhà có hồ nước và khu đất mênh mông đầy gỗ thông che kín tòa nhà với đường lộ; một phần là  vườn hoa và cây ăn trái được chăm sóc kỹ lưỡng. Phòng ăn nhìn ra sau nhà ngang qua bở hồ, và phòng khách có cửa sổ mở ra ba phía, nhìn ra được cả khu vườn và hồ. Trong phòng khách có cây đại dương cầm ở một đầu đối diện với cửa sang phòng ăn; giữa hai cửa sổ là một bàn bằng đá cẩm thạch có để vật trang hoàng; giữa hai cửa sổ ở cuối phòng gần cây dương cầm là lò sưởi và ở góc đó là một cửa sổ cho thấy cảnh hồ.
Mỗi buổi tối theo lệ người ta dành thì giờ trò chuyện trong phòng khách, và ở đó cũng như trong phòng ăn xẩy ra vài  hiện tượng thực ra không thú vị hơn lời của HPB, hoặc dí dỏm, nghiêm trang hay vui vẻ. Rất thường khi em gái của nữ bá tước d’Adhémar chơi dương cầm theo cách làm vui vẻ ngay cả HPB, là giám khảo không khó tánh. Tôi đặc biệt nhớ một giai điệu, khi ấy vừa mới được trình ra ở Paris, làm bà vui hết sức nên hay kêu chơi lại bài đó. Bài gợi nên ước vọng thanh cao và ý niệm vĩ đại về thiên nhiên. Nhiều lần chuyện trò sống động diễn ra ở đó với bá tước ở một bên, và HPB ở bên kia; và thường khi giữa buổi như vậy bà đột nhiên quay sang Mohini và tôi đang ngồi lắng nghe, nhắc lại ngay những ý tưởng vừa thoảng qua trong trí chúng tôi.
Một hôm tại bữa ăn có bá tước và nữ bá tước, con trai họ là Raoul, HPB, Mohini, em gái nữ bá tước, tôi và một người khác, hương thơm rất nồng không sao quên được của nước hoa mà các bạn thân của HPB biết rất rõ là hay đi kèm với hiện tượng hay tự nó đến, lan đều ra quanh bàn, nhiều người cảm biết rõ rệt và không thấy có nó hoặc trước hoặc sau đó.
Lẽ tự nhiên ai hoài nghi sẽ chẳng thấy việc có nghĩa gì, nhưng tôi và những người khác biết rõ điều này tự nó là một hiện tượng, và hương thơm được gửi tới qua nhiều dặm đường trong không như là lời nhắn cho HPB, hay đến từ những ai ẩn mặt, các Vị thường trợ giúp trong việc tạo hiện tượng hay chỉ dạy.
Ở bữa ăn hôm đó, hay hôm khác trong thời gian thăm viếng nơi ấy, tất cả chúng tôi đều từ ngoài vườn đi vào. Tôi hái một nụ hoa hồng nhỏ và đặt nó trên miệng một ly rượu giữa tôi và em gái của nữ bá tước d’Adhémar; cô ngồi bên trái của tôi, còn HPB được đặt ngồi bên phải.
Cô bắt đầu nói về hiện tượng, muốn biết là HPB có thể làm được chăng như chuyện kể về các nhà yogi của Ấn. Tôi trả lời rằng bà làm được nếu muốn, nhưng tôi không hỏi bà, và thêm là bà có thể làm nụ hồng nhỏ kia nở ngay lập tức. Ngay khi ấy HPB dang bàn tay về phía hoa hồng, không đụng tới nó, và không nói chi, tiếp tục ngay việc trò chuyện của mình và ăn tiếp. Chúng tôi nhìn nụ hoa cho tới cuối bữa, và thấy trong khoảng ấy nó hóa lớn hơn nhiều, và nở ra thành một hoa hồng gần lớn hết mức.
Có buổi tối sau khi ai nấy đã ở trong phòng khách một lúc, ngồi không có đèn, ánh trăng chiếu trên mặt hồ và cảnh vật hoàn toàn tĩnh lặng, HPB chìm trong trạng thái trầm tư. Không lâu sau đó bà ngồi lên đi ra đứng ở góc cửa sổ nhìn ra mặt nước, trong chốc lát một chớp sáng dịu lóe vào phòng và bà lặng lẽ mỉm cười.
Nói về buổi tối ấy, nữ bá tước d'Adhémar viết về cùng sự việc:
Làm như HPB đắm chìm trong tư tưởng, rồi đột nhiên bà đứng dậy ra khỏi ghế, đi tới cửa sổ đã mở rộng và giơ tay với cử chỉ ra lệnh. Người ta nghe tiếng nhạc thoảng nhẹ từ xa, tiến lại gần từ từ thành giai điệu yêu kiều tràn ngập căn phòng khách mà mọi người đang ngồi. Ai cũng nghe thấy điệu nhạc và có người nhận xét về nét đẹp của khúc nhạc, và tiếng nhạc yếu dần rồi mất hẳn khi nó trôi ra xa.
Nhạc cõi thanh này thật rõ ràng với chúng tôi, và bá tước đặc biệt nhận xét về sự đẹp đẽ của nó khi tiếng nhạc chìm từ từ ra xa vào nơi không biết. Trọn căn nhà tràn đầy tiếng chuông này vào ban đêm, khi tôi còn thức rất trễ và những người khác đã đi nằm. Chúng tựa như dấu hiệu đi và tới phòng của HPB ở dưới lầu. Và hơn một lần khi chúng tôi thả bộ trong sân dưới những cây hùng vĩ, tiếng nhạc băng vút qua chúng tôi, có lúc mọi người đều nghe rõ và có lúc chỉ một hay hai người nghe.
Tôi có lấy đem theo với mình một cuốn sách ở đó mà chưa đọc xong, và trước khi rời Pháp quay trở lại Enghien để trả. Tới nơi tôi gặp nữ bá tước d'Adhémar, bà nói là hương thơm kỳ lạ và không thể nào nhầm lẫn được mà tôi ghi ở trên, có trong phòng sau khi chúng tôi đã rời đi. Đó là buổi tối khoảng hai ngày sau khi HPB đã ra đi và ông bà d'Adhémar có vài khách đến ăn tối. Sau bữa ăn tất cả mọi người vào phòng khách và chẳng bao lâu nhận ra hương thơm. Họ nói với tôi là hương tràn vào từng đợt và lập tức họ đi tìm xem ở đâu phát ra, họ tới miếng cẩm thạch mô tả ở trên, thấy hương cuồn cuộn tràn ra từ một điểm trên miếng đá. Nó nhiều đến mức nữ bá tước bảo tôi họ phải mở cửa sổ, vì hương trở thành nồng nặc do khối lượng lớn.
Khi quay về Paris, tôi kể cho HPB nghe điều này và bà chỉ đáp:
- Nó thỉnh thoảng xẩy ra như vậy.

15e Vera P. de Zhelihovsky.
Tháng 5 - 1884, Paris.

Bốn người chúng tôi ở  tại số 46 Rue Notre Dame des Champs là bà N.A de Fadeyev, HPB, tác giả Solovyov người Nga và tôi, dùng trà ở cùng bàn trong phòng khách nhỏ, lúc đó chừng 11 giờ khuya. HPB được kêu thuật lại điều chi đó có liên quan với ‘Thầy’ của chị, và làm sao chị học được quyền năng huyền bí từ ngài. Trong lúc kể cho chúng tôi nhiều việc, chị đề nghị cho chúng tôi xem một chân dung của ngài trong hộp nhỏ mầu vàng chói có khóa mà chị đeo bằng sợi dây chuyền ở cổ, và mở nó ra.
Đó là cái hộp nhỏ locket, phẳng, chỉ có thể chứa một bức hình nhỏ mà thôi. Chúng tôi chuyền tay nhau xem vật, mọi người đều thấy gương mặt Ấn Độ đẹp đẽ trong hộp, vẽ ở Ấn. Đột nhiên nhóm ít người của chúng tôi cảm thấy xáo trộn vì điều chi đó rất lạ lùng, một cảm giác thật khó diễn tả. Làm như không khí chợt thay đổi, hóa thanh  nhẹ hơn, không khí trở thành ngộp hẳn và ba người chúng tôi thấy rất khó thở. HPB lấy tay che mắt và thì thào.
– Tôi cảm thấy có điều sắp xẩy ra. Có hiện tượng. Ngài chuẩn bị làm nó.
Chữ ‘ngài’ là chị muốn nói đến Thầy của mình, người mà chị xem là đầy quyền lực.
Khi ấy, ông Solovyov nhìn dán mắt vào một góc trong phòng, bảo thấy có gì như một trái banh lửa hình bầu dục, trông giống quả trứng vàng chói và hơi xanh. Ông chỉ vừa nói xong thì chúng tôi nghe từ đầu xa nhất của hành lang tiếng đàn thụ cầm du dương, giai điệu tròn đầy và rõ ràng hơn bất cứ tiếng nhạc nào khác chúng tôi đã nghe trước đây. Những nốt trong trẻo lập lại rồi lặng dần. Gian phòng yên tĩnh như cũ.
Tôi rời khỏi ghế đi ra phòng ngoài có ánh đèn chói sáng. Không cần phải nói là chung quanh đều yên lặng và trống vắng. Khi quay trở vào phòng khách tôi thấy HPB ngồi lặng lẽ như trước ở bàn, giữa bà N.A de Fadeyev và ông Solovyov. Cùng lúc đó, tôi thấy rõ hết mức hình dáng một người đàn ông mầu hơi xám, mà đường nét thật rõ đứng gần chị tôi, và khi thấy tôi nhìn vào họ, hình đi lùi ra xa khỏi HPB, hóa mờ dần và biến mất vào tường đối diện.
Người đàn ông này, hay đúng hơn là thể thanh nhẹ của ông, có dáng mảnh khảnh, cỡ trung bình, choàng vật như cái khăn và quấn khăn trắng trên đầu. Hình ảnh hiện ra không quá vài giây nhưng tôi có đủ giờ nhìn ngắm kỹ, và kể lại cho mọi người nghe điều tôi thấy vô cùng rõ ràng, tuy tôi cảm thấy hết sức kinh hoảng và lo lắng ngay khi hình biến mất.
Vừa mới hoàn hồn, chúng tôi bị kinh ngạc với một điều lạ lùng khác, lần này là điều hữu hình và sờ chạm được. HPB đột ngột mở nắp hộp của mình và thay vì chỉ có một bức chân dung của Chân sư thì nay có hai, bức chân dung của chị đối mặt với của ngài ! Nằm chặt bên trong chiếm phân nửa chiếc medallion, bên dưới mặt kính hình bầu dục là hình vẽ nhỏ của chị, hình mà chị mới vừa hững hờ nói tới.
Lại một lần nữa chúng tôi ba người chứng chuyền tay nhau xem xét kỹ lưỡng cái hộp nhỏ. Và chưa phải vậy là hết chuyện. Một khắc đồng hồ sau, cái hộp kỳ diệu mà ba chúng tôi thực sự không một giây nào rời mắt, được mở ra vì một người trong bọn muốn vậy, thấy không còn hình vẽ chân dung của chị ở đó nữa. Nó đã biến mất.

15f Francesca Arundale 
30.6 - 16.8, 1884. London.

 HPB trở về London ngày 30.6 và đến ngụ ở nhà chúng tôi số 77 Elgin Crescent, Notting Hill.
Mấy tháng mùa hè mà bà ở nhà chúng tôi tại Elgin Crescent, được đánh dấu bằng những sự kiện lạ lùng và khác thường, tất cả như nhau là chứng cớ cho việc cá nhân tên bà Blavatsky có cá tính khác với đa số những ai chung quanh, và số đông khách tới chơi thuộc đủ mọi giai cấp nói lên mối chú ý người ta có về bà.
Thói quen của bà khi ở với chúng tôi là dành ban sáng để viết bài. Bà hay bắt đầu lúc bẩy giờ sáng mà thường khi sớm hơn, và rất ít khi tôi vào phòng bà khoảng tám giờ sáng mà không thấy bà đã ngồi vào bàn viết, làm cho tới khi nghỉ một chút để ăn trưa rồi tiếp tục đến ba hay bốn giờ chiều. Sau đó thì bà tiếp khách cho đến tối, khách liên tục nối đuôi nhau gặp bà. Bà ngồi ghế bành ngay trong phòng chỉ đủ rộng cho số khách đến, và là tâm điểm cho vòng người tới hỏi chuyện. Tự nhiên là nhiều người đến chỉ vì hiếu kỳ, do tiếng tăm về quyền năng lớn lao của bà thu hút.
Mohini M. Chatterji đi theo bà Blavatsky, còn ông Olcott thỉnh thoảng đến ngụ nhà chúng tôi khi cuộc du hành của ông cho phép. Cũng có người khác quan trọng trong số người Ấn là Babula, người phụ việc cho HPB; với khăn đầu của anh bắt mắt và y phục trắng, anh tạo ra hình ảnh đáng nói; và vào buổi chiều khi khách được mời dùng trà và bình nước nóng samovar kiểu Nga chiếu sáng loáng trên bàn, Babula bưng tách trà và bánh ngọt mời khách, nhà chúng tôi chắc chắn là độc đáo nhất ở ngoại ô London. Căn nhà luôn luôn đầy khách và bởi HPB hay mời thân hữu ở lại chơi, tôi không bao giờ biết là bữa trưa hay bữa tối sẽ có một hay hai mươi người dùng bữa.
Căn nhà không rộng nhưng có hai phòng tốt với cửa xếp ở giữa, vả hình ảnh HPB ngồi trong ghế bành chung quanh là những người học rộng cũng như nhân vật có tiếng trong xã hội là cảnh đáng để ý. Là người trò chuyện khéo léo, bà khiến già và trẻ mê say như nhau, mà cùng lúc ngón tay dịu dàng của bà không ngừng nhón lấy thuốc lá trong giỏ mây luôn ở cạnh mình, và quấn những điếu thuốc nhỏ mà bà hút liền miệng. Đó là mặt giao tiếp của bà. Rồi rất thường khi Mohini Chatterji trả lời thắc mắc về triết lý Ấn Độ. Người ta rất thích nghe các bài nói chuyện của anh, và cửa nhà chúng tôi ít khi nào đóng lại trước một hay hai giờ sáng.
Trong thời gian này, chú nhỏ George Arundale đi học ở trường gần nhà mà cũng có can dự vào chuyện, và tôi nhớ một buổi chiều mọi người đi chơi vườn sở thú. Tất cả ngồi xe kể luôn em nhỏ, và có xe đẩy cho HPB và chúng tôi đi xem các con thú. Không có hiện tượng huyền bí nào trong cuộc viếng thăm này, nhưng một đặc tính của HPB thể hiện cho thấy lòng tốt của bà.
Em nhỏ chạy chơi lăng quăng như mọi trẻ, chạy gần xe của HPB, rồi đột nhiên sẩy chân té xuống đất. Dù đi đứng khó khăn, bà gần như muốn bước ra khỏi xe, gạt cây dù qua bên và tìm cách đỡ chú bé đứng dậy. Quả thật ấy chỉ là chuyện nhỏ nhặt nhưng nó cho thấy sự tốt bụng không kể đến mình.
Một việc lạ lùng mà tôi không hề quên xẩy ra vào thời gian đầu HPB ở với chúng tôi. Nhiều người lúc ấy muốn được liên lạc với các Chân sư qua HPB, và thỉnh thoảng mang thư tới nhờ chuyển đến các ngài. HPB luôn luôn nói.
– Không phải tôi chuyển thư đi, mà Chân sư sẽ lấy thư đi nếu các ngài muốn.
và thư được cất vào ngăn kéo trong phòng bà. Có khi ai viết thư nhận được hồi đáp qua HPB, mà rất thường khi họ không có trả lời, còn ngăn kéo cứ để mở. Một hôm ông Sinnett có điều muốn hỏi ý Chân sư KH và thư cũng được đặt vào ngăn kéo. Hơn một tuần trôi qua mà không có trả lời và tôi rầu rĩ, vì tất cả chúng tôi đều mong muốn là có trả lời. Ngày này rồi ngày kia tôi nhìn vào ngăn kéo mà lá thư vẫn nằm đó.
Một buổi sáng khoảng 7.30 tôi đến gặp HPB (tôi luôn đến phòng của bà đầu tiên trong ngày), thấy bà ngồi ở bàn đang viết như thường lệ và tôi nói với bà.
– Tôi mong biết chừng nào là thư đó được gửi đi.
Bà nhìn thẳng vào tôi và nói.
– Đưa thư cho tôi.
bằng giọng có hơi nghiêm khắc. Tôi đưa thư vào tay bà. Trên bàn có cây nến và bà nói.
– Thắp nến lên.
rồi đưa cho tôi lá thư, bà nói.
– Đốt thư đi.
Tự nhiên là tôi thấy tiếc khi đốt lá thư của ông Sinnett nhưng làm theo lời bà.
– Nay xin cô về phòng và yên lặng suy ngẫm.
Tôi lên phòng mình, chỉ mới rời nó một thời gian ngắn trước đó. Phòng tôi ở chỗ cao nhất trong nhà, là gác sát nóc vì những phòng thấp hơn dành cho khách hết cả rồi, chừa cho tôi và cháu trai ngủ ở tầng trên. Tôi ra cửa sổ nằm hướng ra khu vườn xinh xắn với cây đẹp đẽ. Phía trước cửa sổ là một hộp phủ miếng vải mầu hồng và tôi đứng đó một hay hai phút, tự hỏi HPB muốn tôi suy ngẫm chuyện chi.
Vài phút sau tôi đưa mắt nhìn xuống miếng vải mầu hồng, thấy ở giữa mảnh vải có một bức thư mà hoặc tôi không để ý trước đó hay nó không có sẵn đó, nó trắng trơn mà có chứa giấy dầy và tôi kết luận đây là một bức thư. Tôi cầm nó trong tay, nhìn nó một hai lần mà vẫn thấy phong bì không có tên hay địa chỉ, tôi tin chắc nó phải là chuyện huyền bí và tự hỏi thư gửi cho ai.
Hồi lâu tôi quyết định đưa thư cho HPB, nhìn xuống nó một lần nữa và thấy tên ông Sinnett với nét chữ rõ ràng của đức KH. Tôi chắc chắn là ban đầu không có tên ấy trên thư, cũng như nó không có trong mấy lần khi tôi nhìn kỹ phong bì hết sức. Thư trả lời cho lá thư mà tôi đốt rụi, và nó khiến tôi rất vui được là người nhận theo cách kỳ lạ thư được gửi đi.
Còn có nhiều thí dụ cùng loại. Có lần khi lá thư tôi muốn có trả lời thì rất riêng tư cho tôi, thay vì đặt nó vào ngăn kéo thường lệ, tôi giữ thư trong túi mà HPB và không ai khác biết. Nhưng một tối khi tôi ngồi với bà trước khi lên phòng, bà đưa tôi một lá thư với nét chữ quen thuộc (của Chân sư KH).
Đó là lúc có hào hứng liên miên; nhiều người tiếng tăm đến gặp HPB. Trong số đó tôi nhớ kỹ là ông Frederick W. H. Myers, có tiếng qua hội Psychic Research. Chiều hôm ấy HPB chỉ có một mình và bà cùng với khách bắt đầu nói về những hiện tượng mà ông Myers rất quan tâm. Ông nói.
– Tôi ước chi bà cho tôi một bằng chứng về quyền năng huyền bí của bà. Bà có thể làm điều chi đó để chứng tỏ là có những lực huyền bí mà bà hay nói tới không ?
– Làm vậy thì có gì hay ? bà Blavatsky hỏi. Cho dù được nghe và thấy ông cũng vẫn không tin.
– Xin cứ thử đi. Ông bảo.
Bà nhìn ông một lát theo cách nhìn thấu tâm can mà bà có, rồi quay sang tôi và bảo.
– Xin cho chén nước.
Hai người ngồi giữa ánh sáng của buổi chiều hè; bà ngồi bên phải ông Myers, còn ông ngồi trong ghế nhỏ cách xa gần một mét. Tôi mang chén nhỏ thủy tinh có nước tới và bà kêu tôi đặt nó lên ghế đẩu ngay đằng trước ông Myers, và cách bà một khoảng khá xa. Tôi làm y lời. Chúng tôi ngồi yên chờ đợi một lát rồi từ chén thủy tinh làm như phát ra bốn hay năm nốt, âm thanh mà chúng tôi gọi là ‘chuông cõi thanh’.
Thấy rõ là ông Myers kinh ngạc; ông nhìn HPB và đôi tay bà xếp lại trong lòng, rồi nhìn lần nữa vào chén thủy tinh; không có liên kết nào thấy được giữa hai việc. Mấy nốt của chuông cõi thanh lại vang lên nữa, trong trẻo thánh thót, mà không có cử động gì về phần bà Blavatsky. Ông quay sang tôi, và ta có thể thấy là tôi bị hoang mang không hiểu làm sao âm thanh phát ra được. HPB mỉm cười và nói.
– Không có gì lạ lùng cả, chỉ có chút hiểu biết về cách điều khiển các lực của thiên nhiên.
Khi ông Myers ra về, ông quay sang tôi và nói.
– Cô Arundale, tôi sẽ không bao giờ nghi ngờ nữa.
Nhưng cái trí mới nông nổi, đầy nghi ngại làm sao; chưa tới hai tuần sau ông viết thư nói rằng không tin, rằng âm thanh có thể được tạo ra bằng cách này hay kia. HPB không chút xáo động, thực ra bà nói.
– Tôi biết vậy, nhưng tôi nghĩ làm cho ông điều ông hỏi xin.
Sự việc này cho thấy là hiện tượng ít khi làm người ta tin tưởng; nó gợi nên sự chú ý và nếu cái trí chịu tiếp thu, sẵn lòng xem xét mà không nói rằng điều chi không hiểu thì không thể có được, khi ấy có khả hữu là khám phá ra các sự kiện và luật mới.
Một buổi sáng sớm tôi thấy bà ngồi viết ở bàn trong phòng, sàn vương vãi đầy que diêm đã đốt cháy, cảnh tượng làm tôi rầu rĩ vì tôi thích giữ nhà cửa gọn gàng, và khăn bàn, khăn trải giường và thảm có thể bị cháy, và ngay cả ngôi nhà cũng có thể bị hư hại nặng, vì HPB có thói quen vứt đi que diêm cháy dở mà không màng chút nào là nó rơi xuống đâu. Tôi cũng có ký ức sống động về vài lần khó khăn do cung cách hết sức xem thường thói đời của HPB. Có những người ở xa xôi tới mong gặp bà, và mọi người thường biết giờ tiếp khách là từ bốn đến sáu giờ chiều. Dầu vậy, thỉnh thoảng không vì duyên cớ nào mà chúng tôi có thể thấy được, bà từ chối không chịu ra khỏi phòng.
(còn tiếp)