VỊ CHÂN SƯ
Vị ChânSư(tt)
(Xem Vị Chân Sư từ số đầu tiên trong mục Sách Dịch)
XVI
Thêm vài tuần nữa trôi qua, nay đến lúc có chặng đường mới cho cuộc hành trình, dẫn tới một phố thị cách đây vài ngày đường, nằm trên đồi cao. Thế nên một sáng nọ, Petrius bảo hai đệ tử là họ phải chào từ giã để đi sang chỗ mới.
– Từ nay trở đi, ông nói, đời hai con sẽ khác đi trong một lúc, không còn ẩn dật với người đời, mà các con phải như là nhà truyền giáo, tìm cách phổ biến sự sáng ra chung quanh, tuy cùng lúc cần mẫn gìn giữ bí mật của những thực hành mà ta đã giao cho các con. Để làm việc này, các con phải có tiền hộ thân, thêm y phục và dụng cụ nói chung; hãy ở nhà sẽ dành sẵn cho hai con mà ta đã đặt chỗ trước. Về y phục và tiền, ta sẽ cho một huynh đệ sống gần nhà riêng của hai con gửi gia nhân đi ngựa tới đây, để con có thể dặn dò hết những điều cần thiết, bởi nhóm Huynh Đệ chúng ta có cách liên lạc với nhau qua không gian, cách mà trong tương lai gần con sẽ học, biết rằng không gian không là trở ngại cho quyền năng của tư tưởng hay việc chuyển tâm thức từ chỗ này sang chỗ kia. Vậy chiều mai gia nhân của con sẽ có đây, và ngày sau đó các con sẽ lên đường làm chuyện mới. Hơn thế nữa, ở nơi mà con sẽ đến, có tên là Marbletown (do việc tất cả tòa nhà nơi đó làm bằng đá cẩm thạch trắng), con sẽ gặp một vị thầy khác, tên là nhà hiền triết Florian, có bề ngoài thật đáng kính trọng và vang danh với minh triết của ông. Chỉ thỉnh thoảng các con mới đến gặp ông tuy hãy đến chào ngay khi vừa tới, để ông cho hay chỗ ngụ của con, và công việc sẽ làm.
Thế thì, mọi việc xẩy ra như Petrius nói, gia nhân của anh đến vào chiều hôm sau với tiền bạc và dụng cụ, luôn cả lừa để cỡi trên chặng đường, vì nó dài và dốc. Khi sắp tới giờ lên đường, tim Antonius rung động vì sự buồn rầu, cộng thêm với nỗi cảm xúc của việc chia tay làm anh khó cầm giọt lệ cứ ứa lên chực trào khỏi mắt. Anh chào Petrius lần cuối, nói nghẹn ngào.
– Thưa thầy, con đã học nhiều điều từ thầy, nhưng có một điều con không học được là không cảm thấy sầu não khi chia tay với người mà con thương mến. Nay con hết sức buồn rầu, do sự thành tâm và biết ơn không tả được bằng lời, mà chỉ bằng giọt lệ.
Petrius nhìn anh với sự dịu dàng khôn tả và tình thương trong ánh mắt của ông, cầm lấy tay anh và nói với giọng vô cùng êm ái.
– Hỡi con, đừng ngượng ngùng với nước mắt của con, tuôn tràn từ thi tứ của bản chất con và có sự hùng hồn của lòng biết ơn hơn bất cứ lời khéo nói nào. Mà đúng ra ta mới phải là người có lời cảm tạ con, vì niềm tin tuyệt đối, lòng kiên nhẫn, chuyên cần và năng khiếu nơi con; và nếu ta không khóc ấy là vì sự ra đi của con không có nghĩa xa cách với con, vì ta sẽ theo con trong tâm thức ta và luôn cả Cynara yêu quí.
Và ông kéo cô lại gần, khi ấy cô đứng gần buồn rầu nhìn cảnh tượng.
– Hãy biết rằng mối dây liên kết giữa thầy và trò không thể nào bị đứt lìa, và tâm thức con nay trở thành một phần tâm thức của ta, mãi mãi hòa trong đại hồn. Như thế, hỡi con, đừng sầu não vì một ảo ảnh, và đừng nghĩ rằng con có thể xa cách ta trong thực tại chỉ vì thân xác rời xa. Chẳng bao lâu con có thể thực sự thấy và nói chuyện với ta bất cứ khi nào con muốn, vì khi ấy con sẽ có mắt cảm nhận được những gì bây giờ chưa cảm nhận. Không, lời giã biệt chỉ là sự não lòng uổng phí, cho tới lúc mắt không thể rơi lệ, khô hẳn vì ánh sáng thanh khiết của niềm hoan lạc phát xuất từ linh hồn. Chuyện phải như thế. Tuy nhiên, nếu tình thương của ta có thể làm khô lệ cho con, chắc chắn nó sẽ làm, nhưng bởi nó không thể làm vậy hãy biết rằng cuộc chia ly này chỉ ngắn ngủi, vì nhãn quan bên trong của con sẽ khơi dậy rất sớm và con sẽ thấy vị thầy cũ thân yêu đứng cạnh như thể con chưa bao giờ từ biệt ông.
Ông ôm choàng cả hai người thân ái một lúc lâu, nói.
– Nay, hỡi hai con yêu mến, hãy lên đường, kéo dài sự biệt ly chỉ là kéo dài nỗi sầu khổ.
Cynara, với nước mắt ròng ròng, dẫn Antonius nay sùi sụt đi lên đồi, Petrius nhìn theo hai người với nụ cười, trong đó tình thương, lòng từ và tình phụ tử tất cả hòa làm một, cho tới khi không còn thấy bóng họ.
Từ đó trở đi cuộc đời của hai người lữ hành có thay đổi, bắt đầu bằng cuộc hành trình đi tới thành phố Marbletown, rồi một khoảng dừng chân dài trong khung thành trắng của nó. Lần này cuộc hành trình không dài mà cũng không khó nhọc nhờ con lừa mà Antonius được cho mang theo. Dầu vậy trong một lúc tim anh đầy sầu não, cảnh vật và chuyện trên đường đi trải qua mắt anh gần như không được chú ý; tư tưởng anh vẫn còn quyến luyến Petrius, và nỗi đau lòng của việc chào từ biệt làm tâm hồn anh xúc động mạnh. Nhưng nỗi đau buồn chỉ kéo dài một lúc ngắn và biến mất mau lẹ khiến anh nói với bạn đồng hành.
– Hỡi bạn yêu quí tâm đầu ý hợp, khoa học của Thượng Đế này thật tuyệt diệu, xóa tan lòng sầu não mau lẹ quá, làm nó biến mất nơi người như nước rơi khỏi lưng con thiên nga, như thầy Aristion của chúng ta có nói. Và chẳng biết vì sao anh có cảm tưởng như lòng sầu não của nó lại đẹp hơn các niềm vui đẹp đẽ nhất trong đời; nếu quả thật chúng đẹp đẽ, vì mọi chuyện được thăng hoa bất kể đó là gì, và điều tuyệt nhất trong số đó là tình yêu.
Cynara nhìn anh dịu dàng, gửi anh một nụ hôn vì cô cũng cỡi la đi bên cạnh. Và rồi, khi chiều xuống họ tới đỉnh một ngọn đồi, thấy phố thị Marbletown xinh đẹp mầu trắng bên dưới kia, trong một vùng trũng nằm nép dưới bóng của núi sừng sững phía bên kia. Ánh trời chiều nhuộm đỏ mái vòm, gác chuông và tháp với mầu cam, làm nó trông như chỗ thần tiên quyến rũ, ẩn kín khỏi cuộc lao lực tầm thường của dân chúng rải rác giữa những ngọn đồi. Có nhiều cây trắc bách diệp to mọc đó đây giữa các tòa nhà, như lính gác khổng lồ đứng canh bất tận, khiến Cynara kêu lên.
– Em chưa bao giờ thấy cảnh gì thinh lặng mà đẹp đẽ dường này.
Một lát sau, sau khi hỏi han nhiều người và tìm kiếm, hai kẻ lữ hành gặp nhà hiền triết Florian trông đúng với tên gọi của ông. Tóc ông trắng và dài, chải ngược ra sau để lộ vầng trán rộng, thanh cao, không có vết nhăn nào, chòm râu trắng như tuyết, buông dài xuống quá ngực và nhọn ở cuối; mắt ông sâu lạ lùng, nhìn thẳng vào người đối diện như có thể xuyên thấu vào tận linh hồn của họ. Hơn nữa, ông có phong thái và phẩm cách của một vị quan trong triều, nét nghiêm nghị ít khi được làm nhẹ bớt bằng nụ cười, tuy khi mỉm cười gương mặt của ông hóa ra hết sức nhân từ, êm dịu biến ông thành nhân vật khác hẳn.
Giọng nói của ông cũng theo như dáng người, sâu và vang làm người ta phải chú ý, vì ông nói năng từ tốn và mạnh mẽ, nhưng có điểm xuyết câu chuyện với sự dí dỏm, làm cho nó càng khôi hài hơn vì xem ra ông hoàn toàn không để ý tới điều đó, nói lời thật súc tích mà gần như không phớt nụ cười nào. Khi Cynara và Antonius được dẫn vào gặp ông, người có phong cách làm ta phải e dè, ông đứng lên khỏi ghế đang ngồi đọc một cuộn giấy, và cúi người chào, khoát bàn tay dài, mỏng, mầu trắng, làm cử chỉ mời họ ngồi. Ông ngồi trở lại xuống ghế và nói.
– Ta tin là hai con từ Petrius bạn ta đến phải chăng ? Và mọi chuyện êm xuôi chứ ? Nhà cho hai con đã sẵn sàng, nằm gần đây, học trò ta Leonidas sẽ đưa hai con về đó.
Ông ngưng một lát, để Antonius nói lời cảm ơn sự chu đáo của ông, sau đó ông nói tiếp.
– Thánh thần đã gửi hai con tới đây để giúp ta trong công việc của chúng ta, vì thành phố này có đầy triết gia mới ra ràng cần được chỉ dạy, đa số chỉ là kẻ có học lười biếng, ở trong một nhóm với nhau, nghĩ rằng sẽ khám phá ra chân lý trong đó và hoàn toàn mù quáng, không thấy sự việc là chân lý nằm hẳn ở ngoài nhóm của họ.
Antonius nói.
– Ô, thưa thầy, có người như thầy ở giữa bọn họ, chắc chắn họ không thiếu người cứu độ và chẳng thiếu thốn sự sáng.
Nhà hiền triết trả lời.
– Như hai con thấy, ta đã lớn tuổi nên bị xem là lỗi thời và lạc hậu, kẻ ít tuổi có thái độ coi thường, ra vẻ bao dung không tôn kính. Mà ấy là sự che chở cho ta, khiến ta được yên thân không bị quấy nhiễu và giữ ngầm quyền điều hành không ai biết.Vì họ nói, 'Ông chỉ là ông lão, lụm cụm trong xóm nghèo với triết lý cũ rích, vậy ý kiến của ông không có giá trị gì'.Nên họ để yên cho ta, và đó là điều ta mong muốn, cho phép ta chỉ dạy các đệ tử trẻ hơn làm việc cho công cuộc của chúng ta mà có vẻ như không cần đến ta chi cả. Ấy là cách làm việc tiện lợi nhất để ảnh hưởng nhân loại, góp phần nhỏ bé của mình vào việc cải thiện chúng sinh.
'Bởi đáng tội thay, thời đại mà chúng ta đang sống đây chìm sâu trong bể lầy lội của thuyết duy vật và không có niềm tin do vô minh. Đây là sự kiện sinh ra từ việc có ít hiểu biết.Nó là chuyện nguy hiểm vì hoàn toàn thiếu lòng khiêm tốn, với hệ quả là lòng kiêu căng được nuôi dưỡng. Các triết gia của chúng ta dựng nên một sự hiểu biết không có thực, không dựa trên gì hết mà chỉ là sự vô minh, hậu quả là họ phủ nhận sự bất tử của linh hồn, và sự hiện hữu của bất cứ tâm thức nào bên ngoài và bên trên cái vỏ vật chất; tìm cách khuyến dụ ngay cả ai có mắt tâm linh đã mở thấy được chuyện vô hình, rằng hết các cảm nhận ấy chỉ là tưởng tượng và không có gì cả ngoài cõi trần. Thế nhưng chắc chắn sự vô minh không bao giờ có thể thuyết phục được sự hiểu biết, cũng như việc thiếu kinh nghiệm không bao giờ có thể phủ nhận được kết quả của kinh nghiệm.
'Nó làm ta nhớ lại chuyện mà sẽ thuật cho hai con nghe, bởi ngày kia chuyện nó sẽ có ích khi tranh luận. Xưa kia có một thành phố đầy người mê tín và vô minh, làm phật lòng thần thánh vì vài nghi lễ không thánh thiện và phạm thượng mà họ làm, có lòng tàn nhẫn, hành hạ dùng người làm vật tế thần. Không phải chỉ có đàn ông, đàn bà bị tế cho ma quỷ, mà trước tiên họ bị móc mắt trong khi dân chúng chứng kiến, say sưa với cảnh tượng và tiếng kêu la đau đớn vang dội trong không. Cuối cùng, như ta nói, thần thánh giận dữ, cương quyết chấm dứt hành động man rợ này trừ phi dân chúng ngưng hẳn không bao giờ làm nó nữa.
'Thần thánh gửi một ông đạo từ xa mang thông điệp tới, đứng giữa chợ kêu gọi mọi người theođường ngay nẻo chánh. Mà chẳng ai nghe lời ông, chỉ có năm hay sáu người là chịu lắng nghe còn thì ai cũng giả điếc.Sau rốt ông kêu to.
– Các người thật cứng đầu, tai điếc, nay ta phải làm theo lệnh của thánh thần là chủ nhân của ta, nguyền rằng thành phố này với hết thẩy dân cư trong đó, và con, cháu, chắt, chút, chít của họ sẽ bị mù, trừ những ai nghe lời ta. Nhân danh Thượng Đế.
'Giọng nói của ông vang vang, kinh khủng, làm rúng động vì lời nguyền ghê gớm. Thế rồi chỉ trừ năm hay sáu người biết ăn năn hối lỗi, tất cả dân cư trong thành phố bắt đầu bị khiếm thị, rồi tới con, cháu, chắt, của họ sinh ra bị mù, không có ký ức hay ý niệm việc có mắt thấy có nghĩa là sao, nhưng con, cháu của ai ăn năn hối lỗi, sinh ra như mọi ai khác trong đời, có nhãn quan lành lặn. Thỉnh thoảng có cuộc thảo luận lớn giữa ai bị mù bẩm sinh và ai có mắt thấy được, người trước cãi.
– Này, lũ khùng, coi coi, điều mà các anh gọi là thấy đó chỉ là tưởng tượng và là trò lường gạt, không nghĩa lý gì, vì sự thật là nó không có căn bản, vậy mà các anh ba hoa với chúng tôi chỉ để làm điệu làm bộ, khiến cho mình được chú ý và được xem là quan trọng, muốn chơi trội hơn chúng tôi là người bình thường mà biết điều hay lẽ phải hơn.
'Người sau tìm cách thuyết phục họ bằng lý luận và lời hùng biện, nhưng thấy biện luận không đi tới đâu bèn nói.
– Được lắm, chúng tôi sẽ thuyết phục các anh bằng cách làm điều mà các anh hoàn toàn không thể nào làm được.
Làm vậy không khó, vì họ có mắt không bị việc mù lòa giới hạn và có thể làm nhiều điều mà nhóm người kia không làm được. Nhưng đối thủ của họ lại nói.
– Đây không phải là chứng cớ vì trò của các anh chỉ là đánh tráo tay và thủ đoạn bịp bợm của kẻ lừa bịp, giả mạo, hãy cút đi, đừng ba hoa thêm nữa.
'Sau một thời gian dài, tới lúc lời nguyền được giải, có một y sĩ lạ, cao lớn, đột nhiên xuất hiện ở thành phố bị nguyền rủa ấy, gây tiếng vang chấn động với thuốc thoa mắt mà sau khi dùng nhiều lần, làm người mù được sáng mắt. Ai bị mù mà được chữa thì lành bệnh, nhưng số người còn lại hô hoán ông là lang băm, chịu ảnh hưởng của ma quỷ, âm mưu chống họ, nên chính quyền cấm không cho ông vào thành phố, với cớ vu khống là ông chữa bệnh lấy tiền, với lời vu oan thấy ngay là sai lầm. Khi nghe vậy, thần thánh bàn với nhau.
– Lời nguyền mà chúng ta áp đặt cho những cư dân khờ dại này, nhằm trừng phạt họ và do vậy đưa họ ra khỏi con đường tội lỗi, nay đã hết; nhưng nếu họ muốn tự mình bị lời nguyền thứ hai là sự mù quáng và điên rồ, và lần này họ bác bỏ cơ hội chúng ta cho họ thì ấy là chuyện của họ, không còn là chuyện của chúng ta.
'Nhưng kết quả là thành phố vẫn còn hai thế hệ bị mù, và lẽ ra còn vậy tới ngày nay, nếu không nhờ những ai sáng suốt trước đây được chữa khỏi, đã vì lòng thương xót đồng bào mình, đưa y sĩ trở lại và nhiều người khác giống ông để chung cuộc ai cũng hết bệnh.
Tới đây nhà hiền triết già ngưng chốc lát trước khi sang phần luân lý trong chuyện của ông, nhìn vào hai thính giả với ánh mắt soi thấu. Ông nói.
– Ý nghĩa của ẩn dụ này nằm không xa cho ai hiểu biết, vì thành phố bị nguyền rủa ấy không gì khác hơn là thế giới, và cư dân của nó là cư dân trên địa cầu này; có lúc có mắt để nhìn như là thông nhãn và cảm nhận tâm linh, nhưng vì ham muốn có quyền hành và những tật xấu khác sinh ra do lòng ích kỷ và óc duy vật, các vị thần về Định mạng bắt buộc phải lấy lại những khả năng, làm họ như bị mù, và chỉ có biệt lệ cho một số nhỏ người linh hồn đã giác ngộ và vị tha hơn, để cho chân lý có thể không mai một hoàn toàn khỏi thế gian. Nay tới thời điểm lời nguyền trên sắp hết, và cũng chính những vị ấy gửi y sĩ đến dưới dạng các Đạo sư, nhà Tiên tri, và Huấn sư để chữa bệnh khiếm thị cho nhân loại.
'Thay vì chào mừng các vị cứu độ mới, họ lại không muốn có chút nào, tự mình làm kéo dài lời nguyền do sự mù quáng của mình, bác bỏ làm ra vẻ khôn ngoan, có thói kiêu hãnh trí tuệ, và những tánh tình do lòng vô minh giả dạng như là hiểu biết sinh ra. Thế nên họ bách hại ai đến cứu họ, tìm cách xua đuổi không thật lòng quan tâm đến. Dầu vậy, do tình thương cho những kẻ bách hại mình, các vị cứu thế vẫn lưu lại, gieo vào tâm trí của thi sĩ, triết gia và văn sĩ những mầm nhỏ bé của Chân lý, tuy các văn, thi sĩ này không hay biết. Hãy biết rằng hứng khởi không gì khác hơn là một thoáng nhìn nắm bắt được chân lý ở cõi cao, gieo vào tim của thi sĩ hay triết gia, nhờ các vị không ngừng làm việc cho sự giác ngộ của nhân loại, để cho khả năng của họ được gợi hứng tương ứng với khả năng làm cho mình được cảm thụ, giữ cho trí não không bị mù quáng và kiêu hãnh, lòng ích kỷ làm chướng ngại, làm con tim bị ô uế hơn điều gì khác trong thế giới.
'Nay, hỡi con, như ta có nói, thành phố này có đầy triết gia mới ra ràng cũng như thi sĩ, điêu khắc gia, ca sĩ hát rong đủ loại, họ tụ về đây vì nét mỹ lệ của nó và không khí trong lành. Một số rao giảng chuyện vô cùng khờ dại, người khác thấy được một thoáng chân lý chỗ này chỗ kia, và có lẽ không mau hay lâu sau đó sẽ được thu hút tới nhóm Huynh Đệ; tuy nhiên xem ra số đệ tử chỉ có ít oi nên ta mừng có hai con đến làm đông hơn, giảng giải lời ta thêm cho họ, gieo đây kia hạt giống may ra rơi vào mảnh đất phì nhiêu ... Nay ta sẽ chogọi Leonidas là học trò của ta, để hắn đưa hai con về chỗ cư ngụ, bởi không nên để gia nhân đứng chờ bên ngoài với con la quá lâu.
Và rồi ông chậm rãi bước ra khỏi phòng, lưng không cong và bước chân vững chắc như thể ông là thanh niên. Cynara quay sang Antonius với nụ cười dí dỏm, nói khẽ làm như học trò nói chuyện lén khi thầy giáo ra khỏi lớp một lúc.
– Em tự hỏi ông bao nhiêu tuổi, và tại sao trông ông già thật, còn nhiều người khác so ra trẻ hơn. Chẳng những ông trông thật đáng kính mà còn làm em cảm thấy nể phục.
Ngay khi ấy ông quay vào phòng, đem theo một thanh niên người tầm thước, có đầu nhỏ lạ lùng và phong thái lộ ra đầy sinh lực, thấy qua cử chỉ nhanh nhẹn tuy không có vẻ chộn rộn nào. Người mới vào này chào các bạn học với nụ cười thân tình, nói vài lời thân ái đón tiếp họ, bảo hai người cần điều gì xin cứ cho anh hay để giúp, và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì mà họ muốn. Thế nên, sau khi chào từ biệt nhà hiền triết, giây lát sau họ về tới chỗ ngụ mới của mình, trông nó khiêm tốn nhưng thanh nhã, tiện nghi và sạch như bong; đèn đã thắp cho thấy tường phòng trắng bạch có in ánh nắng vàng của trời chiều sắp tàn.
XVII
Từ hôm ấy trở đi đời của hai người có thay đổi, và rồi họ quay trở lại môi trường cũ, có thêm bạn và theo đuổi nhiều sinh hoạt. Thời gian trôi qua, những quyền năng khi trước anh được cho hay là sẽ tới, nay bắt đầu lộ ra, khiến cho Antonius thấy mình ăn nói trôi chẩy và hùng biện làm chính anh cũng phải ngạc nhiên. Thêm vào đó anh có khả năng chữa được nhiều bệnh, và trên hết thẩy, chữa được tâm hồn sầu khổ.
Kết quả của những việc này là đủ mọi hạng người đến với anh, người muốn học nơi anh, người khác muốn thảo luận, có người muốn được chữa lành. Mà rồi kẻ thù cũng tụ lại, vì anh thách thức thói đời, và cũng vì anh gợi nên lòng ganh ghét, ngờ vực do việc thiện và chữa lành, do anh không nhận tiền trả cho công lao của mình, và bởi thế làm các y sĩ tức giận cũng như là giáo sĩ. Người sau thắc mắc về niềm tin tôn giáo của anh, thấy chúng không giống như của họ.Các y sĩ nói với nhau.
– Hắn chữa bệnh không lấy tiền, như thế hắn làm chúng ta sạt nghiệp, vì bệnh nhân sẽ bỏ chúng ta để tới với hắn. Hơn thế nữa hắn đi ngược với hiểu biết của chúng ta về y khoa, dùng những phương pháp mà chúng ta không tán đồng và hẳn là phải sai, như vậy nếu bệnh nhân khỏi bệnh thì nó phải là do việc họ dễ tin mà không phải do điều gì khác.
Còn các giáo sĩ nói.
– Hắn không hề dự vào nghi lễ nào của chúng ta, hay vào đền thờ, ca ngợi thần thánh, vậy hắn phải là kẻ dị giáo và cho ảnh hưởng xấu, là sự nguy hiểm cho cộng đồng. Thế thì nó là chuyện hay nếu chúng ta hạ bệ hắn.
Ai theo thói đời thì nói.
– Hắn phạm hết tất cả những luật trong xã hội, không làm theo chuyện này hay kia; ngoài ra đệ tử của hắn là thiếu phụ và thiếu nữ. Hắn không lấy học phí và đâu có ai làm gì không công trong đời, ta có thể nói đúng rằng hắn là kẻ chơi bời, che đậy sự vô luân của mình qua cớ là dạy triết lý.
Ngay cả người vô thần cũng lên án anh, bảo.
– Hắn là tên lang băm, lừa đảo, bịp bợm, giả danh, làm phép lạ mà thực ra chỉ là trò ảo thuật để có tiếng; và chuyện không lấy tiền là bằng chứng cho điều chúng ta nói, vì bằng cách ấy hắn lại có tiếng hơn, giả vờ là người độc đáo, nhà nhân ái và thánh nhân. Lại nữa, khi chúng ta hỏi làm sao thực hiện được những việc hắn làm, hắn chỉ tránh né và đáp, 'Nhờ biết các luật thiên nhiên, mà không được phép tỏ bầy bí mật của chúng', cho thấy ngay trọn câu chuyện phải là trò lường gạt mà chẳng là gì khác.
Và như thế, theo với thời gian, tuy bạn bè vẫn giữ tình thân, kẻ thù của anh gia tăng, vu khống và nói xấu đủ chuyện, tìm cách ngăn cản, phá rối anh bằng đủ mọi chước. Nhưng anh tự nhủ.
– Hạnh phúc của ta nằm trong tâm hồn, không thể bị tàn lụi do sự ngu ngốc đáng thương của bọn người phàm dốt nát này. Thế nhưng có vẻ câu chuyện của nhà hiền triết lão thành có điều tiên đoán liên hệ đến ta, và cuối cùng ta sẽ bị đuổi ra khỏi nơi đây, dong ruổi tới chỗ mà định mạng đặt để cho dù ta có muốn hay không, và chuyện sẽ đến rất sớm.
Phải, việc xẩy ra y vậy, bởi các giáo sĩ lập mưu với các y sĩ, các y sĩ với người vô thần, và cả ba nhóm đi tới chính quyền, đòi hỏi rằng tên lang băm này bị đem xử rồi bỏ tù, hoặc là bị trục xuất hẳn ra khỏi cộng đồng. Trong lúc đó bạn bè tới gặp anh và nói.
– Chúng tôi nghe là ngày mai hay mốt anh sẽ bị bắt, thành ra xin anh đi trốn khỏi thành phố ngay lúc còn ngày giờ, bởi tự ý đi thì tốt hơn là bị xua đuổi.
Nhưng Antonius nói.
– Không, tôi chịu chờ và bị bắt, vì nếu số phận muốn tôi làm khác đi thì thầy của tôi hẳn sẽ phải cho tôi hay. (Việc bị hạ bệ trong mắt người đời là điều mà bậc đạo đồ nào cũng phải gặp, và một trong những luật là họ không hề chống đỡ để bảo vệ tư cách mình. Ngay cả đấng cao cả như đức Jesus phải trải qua thử thách, và bậc đạo đồ thấp hơn như bà Blavatsky và những vị khác cũng vậy). Sao đi nữa, tôi rất tạ ơn lời khuyên của các bạn, vì nó cho tôi chuẩn bị và khuyên tôi đi chào từ giã bạn bè trong lúc còn làm được thế.
Nên cùng ngày ấy anh đi thăm nhà hiền triết Florian, biết là ông sẽ cho anh hay về chặng tiếp của con đường, vì trong thời gian anh cư ngụ tại Marbletown, ông luôn luôn là người chỉ dẫn và khuyên bảo kín đáo. Khi anh tới, nhà hiền triết già nói.
– Này con, con làm việc giỏi dang lắm, gieo nhiều hạt giống tốt trong thành phố này, mang lại được nhiều đệ tử cho Khoa học của Linh hồn; sự thất bại của con, mới xem có vẻ là xấu, sẽ mang lại kết quả tốt đẹp, vì nó sẽ loại ra đệ tử yếu ớt, tinh thần kém cỏi với kẻ thực lòng, cho thấy rõ ai thành tâm và ai chỉ theo đuôi mà sẽ bỏ đi ngay khi có dấu hiệu nguy ngập, lập tức mất niềm tin. Còn về chính con, cùng với Cynara, nay có thể đi chặng cuối của con đường, vì hai con đã có quyền đạt tới chứng đạo cuối cùng từ những vị Chân Sư mà như con biết, ngụ ở bên kia đỉnh núi tuyết phủ xa tít ta có thể thấy qua cửa sổ này.
'Mà hãy biết rằng đường lên núi dài và cực nhọc, nhưng hãy phấn đấu tới hết sức của con để tới đích, không bao giờ cho phép mình nghĩ đến sự thất bại. Nay con đường rõ ràng vì đỉnh núi hằng ở trước mặt con, nhưng nếu con không chắc phải tiến theo lối nào, hãy hỏi tâm trí và câu trả lời sẽ có ngay.’
Antonius chào từ biệt ông, cám ơn lời chỉ dạy và sự sáng suốt mà ông rộng rãi cho anh, còn nhà hiền triết thì ôm lấy anh và chúc lành cho anh được bình an. Thế thì Antonius quay về nhà, và cùng với Cynara sửa soạn ra đi, không khỏi có chút buồn rầu trong tim. Anh nói với cô.
– Em có chào thầy Florian chưa, vì ai biết ngày mai sẽ ra sao ?Và cô đáp.
– Em đi ngay đây.
Nhưng vừa khi cô quay lưng để đi, đột nhiên không có gì báo trước, vị ẩn sĩ Petrius hiện ra đứng cạnh họ. Quanh ông có một vầng sáng chiếu đẹp vô tả, mắt ông long lanh nhân hậu với tình thương hằng có đó, mà nay nồng đậm và xinh đẹp không sao tả được. Một nỗi vui mừng lớn lao tràn ngập tim Antonius và Cynara, hòa lẫn với lòng quí mến và thương yêu, nên họ cảm thấy muốn quì xuống sụp lậy ngay khi ấy ở đó, nhưng ông nói.
– Ta chỉ là người phàm và tới đây do đã hứa cách đây không lâu, là khả năng nhận biết của hai con đã được khai mở, thành ra hai con có thể thấy ta gần như bất cứ khi nào con muốn.
Và rồi ông thêm.
– Giờ hãy nghe đây, vì ngày mai chính quyền sẽ đến bắt con, Antonius, nhưng ta biết con trung thành với lời hứa và sẽ không tiết lộ bí mật gì, không chống cự, hay hé miệng sự việc nhà hiền triết Florian là thầy dạy về bất cứ mặt nào; vì việc con bị hạ bệ trong mắt người đời là việc con được nâng cao trong mắt các Chân Sư, cũng như nó là dấu hiệu cho thấy nỗ lực của con ở chỗ công cộng nay đã xong, hay ít nhất là vào lúc này; nó là chuyện để con tự quyết định về sau có muốn tiếp tục hay thôi.
'Nhưng hãy biết rằng, ai chấp nhận sự chê bai vì Chân Sư và vì công cuộc cho Nhân loại, được thưởng ngàn lần hơn như tới ngày giờ con sẽ được biết. Và nay, ta ban phép lành cho hai con cho đến khi chúng ta lại gặp nhau.
Nói xong ông biến mất khỏi mắt hai người, đột ngột như khi ông đến. (còn tiếp)
Cyril Scott
The Initiate I