BA NGƯỜI LÍNH
Kỳ 11 (PST 67)
Winfred Brandon
We Know These Men
Cô vừa thấy gì vậy ? Phải chăng cô suy nhược quá đến mức tưởng tượng ra hình ảnh thật đến như vầy ư ? Người điều dưỡng bên cạnh Carol bình thản nhìn ngay ra đúng chỗ mà Gordon vừa đứng; có vẻ như cô này không thấy hoặc nghe gì cả. Mọi việc tan biến chỉ trong khoảnh khắc. Hình ảnh thoảng qua đã biến mất và Carol tự hỏi mình có thiếp ngủ một lúc và mơ thấy chuyện không. Khi chót hết, tin rằng mình đã thiếp ngủ cô cảm thấy yên lòng.
Carol là người rất thực tế nên không coi đây là việc quan trọng. Cô rất đỗi tự tin nên khi đã xếp chuyện như thế vào một góc trong tâm trí và coi đó là ảo tưởng; nhưng cô vẫn còn nhớ nỗi mừng vui rộn ràng cảm thấy trong lòng.
Chuyện minh chứng cho thuyết nói hễ mơ tưởng điều gì thì sẽ thấy điều ấy, cho sự dồn nén trong tâm, và phân tâm học ! Nay cô có thể làm chứng cho sự đúng thực của khoa tâm lý mới mẻ này. Ấy là cách Carol suy nghĩ và cô tự an ủi mình với các giải thích đó.
Trong lúc này cô là nữ điều dưỡng rất mực hữu hiệu cho binh sĩ. Đa số các cô trên tầu đều có bản lãnh cứng cỏi không suy yếu vì công việc khó nhọc; cô cũng phải mạnh mẽ không kém. Carol suy nghĩ về những điều này khi cô trên đường về nước, sẵn sàng tạo một cuộc đời mới cho mình.
Nhiều điều dưỡng viên trong chiến tranh trở về cách sống khi trước của họ. Một ít người ý thức rằng cần có phong trào lớn về hòa bình, và tuyên bố là họ sẵn sàng làm việc cho phong trào. Những cảnh tượng mà họ đã chứng kiến, thân xác bị tàn phá mà họ chăm lo, đã làm họ nhận biết trọn vẹn sự tàn nhẫn ngu dốt của chiến tranh, và dùng chiến tranh để chứng minh các lý thuyết chính trị chỉ là điều vô nghĩa.
Carol thông cảm với ý tưởng lập một phong trào hòa bình, nhưng cô không tin rằng nó có hữu dụng thực tế để loại trừ chiến tranh. Cô biết hòa bình đã được rao giảng từ hai ngàn năm qua, và kết quả là mười triệu người bị sát hại, và gấp ba lần số người như thế bị thương tật. Có bao nhiêu triệu người bị khủng hoảng, chai cứng, và không còn thích hợp cho cuộc sống trong xã hội văn minh ? Ta sẽ không bao giờ biết được. Lý tưởng về quyền lực, về sự cai trị của kẻ Mạnh, đã được dạy cho mỗi một người lính ở mỗi chiến tuyến. Carol không bị dẫn dụ bởi chữ 'hòa bình'. Cô biết không có hòa bình. Trí não cô sáng suốt rất mực, nên không thể tin rằng lời hô hào 'Hòa bình ! Hòa bình!' sẽ khiến người đã bị biến thành sói hóa thành cừu.
CHƯƠNG XXXV
Đa số người ở trong tình cảnh Brainard hẳn sẽ chán chường với việc bị cô đơn, không có cách nào làm cho người còn sống biết về họ, ngoại trừ thỉnh thoảng khêu gợi được tâm thức của ai mà họ ở gần. Dầu vậy, ấy là điều mà anh quyết định làm. Anh tin chắc rằng theo với thời gian, anh sẽ có thể khiến cho Carol thấy được anh. Bao tuần lễ rồi tháng dài ở những chỗ mà cô làm việc sau khi ngưng chiến, không làm thay đổi quyết tâm của anh muốn gần cô, chờ đợi cho tới khi cô về nước và về cùng với cô.
Có một lúc ông nội của anh đến thăm thường xuyên, nhưng nay ông đã hồi hương và chỉ còn lại sự thinh lặng. Trong những tháng khi anh là linh hồn cô độc lang thang trong các bệnh viện nơi Carol làm điều dưỡng, anh bắt đầu ngẫm nghĩ để hiểu những chuyện đã bỏ qua không để ý tới hồi còn ở Tổng Hành Dinh. Anh cũng suy gẫm lại hết những gì mà ông nội đã giảng cho anh, và nhận thức là mình tương đối có ít năng lực ra sao.
Sống như vầy không phải là sống cho bất cứ ai. Anh không thể giúp gì cho Carol; anh còn không thể làm cho cô tin là anh vẫn là người sống động và vẫn thương yêu cô. Sống như vậy thì có ích gì ?
Đột nhiên anh bắt đầu nghe bác sĩ, điều dưỡng viên và binh sĩ bàn tán chuyện hồi hương.
Nó mới làm nhẹ lòng làm sao !
Anh không phải là người yêu nước cuồng nhiệt nhất, nhưng anh mong muốn được sống chung trở lại với đồng bào mình. Anh muốn gặp lại người cùng xứ, gặp lại cha mẹ anh dù biết rằng cái chết của mình làm đời ba mẹ hóa thảm sầu. Tuy thế, gặp lại song thân sẽ làm anh vui và biết đâu lại có cơ hội làm hai người thấy được anh.
Khi tới lúc rời Pháp anh cảm thấy mình được thanh thản hơn bao giờ hết, kể từ khi anh rời nước. Carol có nhiều giờ rảnh hơn và anh có thể ở cạnh cô trong những lúc hai người đi dạo trên boong, cho dù cô không biết. Anh bắt được tư tưởng của cô nghĩ về anh, và ráng tìm cách gây ấn tượng lên trí của cô về tư tưởng của mình. Khi cuối cùng anh gắng sức dữ dội làm cho Carol thấy được mình, anh mỉm cười và nói:
– Chót hết thì chúng mình hồi hương.
Nhưng thay vì có niềm hân hoan như anh mong đợi, cô lại có vẻ kinh hoảng và gần như muốn ngất đi. Thế thì, ngay cả việc thấy hình dạng của anh cũng vô ích ! Việc hiển hiện chỉ trong phút chốc của anh thì có lợi gì khi cô vẫn không muốn chấp nhận rằng sự hiện diện của anh là thực ?
Phải chăng bao thời gian tìm cách ở gần Carol chỉ là uổng phí ? Làm sao tình yêu lại mù quáng được như thế ? Tương lai sẽ mang lại hạnh phúc gì cho hai người chăng nếu cô tin rằng anh không còn hiện hữu ?
Anh không cay đắng, mà chỉ cảm thấy chán chường.
Sao cô cứ muốn bác bỏ bất cứ điều gì mà khoa phân tâm học không thể giải thích được ? Căn bản của lý thuyết ấy có thể mang lại được vui thú gì ?
Lẽ tự nhiên anh phải nhìn nhận rằng cho tới lúc tử trận, chính anh cũng đã suy nghĩ giống như cô.
Có nhiều người trên tầu cùng cảnh ngộ với anh, là tử trận ở Pháp và nay sống trong những thể thanh. Cũng có một người trong bọn, một ông thầy, phụ trách về những người này; công việc của ông là chăm lo cho linh hồn tử sĩ. Brainard quyết tâm ở cạnh ông trong phần lớn thời gian sau khi Carol phủ nhận sự hiện diện của anh. Anh nhất định lấy lại phần nào thời gian đã hoang phí. Người giảng viên này, thấy rõ là có nhiều kinh nghiệm trong việc giúp đỡ những ai vừa rời trần, đặc biệt quan tâm đến Brainard, và còn nói là theo ông, Brainard sẵn sàng trở thành học viên đầy hứa hẹn.
Khi Brainard giải thích là anh hy vọng bằng cách nào đó tiếp xúc được với cô gái mà anh thương yêu, và không chừng làm cho ba mẹ tin rằng anh vẫn còn sống, người giảng viên tỏ ra không hăng hái cho lắm.
– Khi anh không được huấn luyện về việc bảo tồn và sử dụng năng lực trí tuệ, là năng lực duy nhất mà chúng ta có ở đây, thì không chắc là anh có thể thực hiện được gì nhiều. Tuy nhiên, nếu anh quyết định trở về New York, ở đó cho linh hồn nào còn bị ràng buộc vào cõi trần là trường hợp của anh, chúng tôi có một nơi dễ tiếp xúc với người trong nhóm chúng tôi, và anh có thể cho chúng tôi biết khi anh sẵn sàng theo học một lớp. Nhóm của chúng tôi gọi là Nhóm Huynh Đệ Chánh Đạo, đây là nhóm người thường không phải dòng tu, và mục đích của chúng tôi là cho người trần hiểu biết - theo khả năng của chúng tôi - về cõi này, là nơi mà ai cũng bước qua khi họ rời trần. Bằng cách ấy chúng tôi hy vọng giữ cho thế giới được hòa bình.
Thì ra đó là ý nghĩa của mọi điều mà anh thấy các ông thầy và giảng viên làm; họ là người tìm cách khuyến cáo những chính trị gia và nhân loại về hiểm hoạ. Anh có thể giúp một chút trong nỗ lực ấy; đó sẽ là mục tiêu cho anh trong cuộc đời này, cuộc đời mà cho tới nay không gây ấn tượng gì cho anh ngoài cảm nhận là nó hoàn toàn vô ích. Anh vẫn còn thương yêu Carol và muốn được là một phần của đời cô, nhưng nếu cô khư khư giữ lấy niềm tin duy vật của mình thì chỉ phí thì giờ mà thôi.
Dầu vậy, anh muốn thử một lần nữa. May ra nay đã trở về nước và ở trong khung cảnh quen thuộc, anh có thể tìm cách làm cho cô cảm biết được anh.
Khi về nước xong xuôi, Carol đi tới bệnh viện và sắp xếp công chuyện để cô có thể nghỉ cho xong mấy ngày phép ở nhà.
Brainard cảm động vì quyết tâm của Carol muốn phục vụ cho các bạn đồng ngũ kém may mắn của anh. Liệu có thiếu nữ nào khác với tư cách thanh cao, học thức như Carol có thể làm việc trong khung cảnh như vậy chăng ? Brainard tin chắc chỉ độc nhất có Carol là người hết lòng tận tụy với lý tưởng phục vụ này. Nó làm anh yêu quí Carol hơn.
Phải chi hồi đó anh đủ bạo dạn và thành hôn với cô khi có cơ hội, cho cô cuộc đời mà cô hết sức xứng đáng ! Cô sẽ là bà mẹ tuyệt như thế nào cho bầy con của anh ! Anh sẽ có gia đình hạnh phúc như thế nào với cô và anh ở tâm của mái ấm ! Nay có hối tiếc thì chuyện đã rồi ! Hai bên hoàn toàn bị cách ngăn bởi nhịp cầu Ô Thước, cho tới khi cô sang đây gặp anh. Anh sẽ chờ cô, và không chừng cả hai có thể được hạnh phúc dù ở cảnh đời hoàn toàn khác lạ này.
Anh có thể chờ, nhưng anh muốn cô có lời giao ước.
CHƯƠNG XXXVI
Để có thể về nhà mình, Brainard biết là phải bám theo Carol vì anh chưa đủ sức tự mình đi tới chỗ. Điều mà anh có thể hy vọng nhiều nhất là may ra tiếp xúc được với gia đình của anh để an ủi cả nhà, và gây ấn tượng với Carol. Cô sẽ không thể phủ nhận chứng cớ mà ba mẹ có như đã phủ nhận với Flanagan, hay anh lính đã viết lời nhắn của anh, và việc cô đã thoáng thấy kình bóng của anh trong phút chốc.
Chặng đường xe lửa về nhà tỏ ra buồn chán cho cả hai người, tuy mỗi người bận tâm với sự thay đổi mà họ cảm thấy, kể từ khi rời chính cảnh núi non đồng ruộng nay đang vùn vụt lướt qua.
Khi tới nơi, Carol có ba mẹ và một số bạn xưa ra đón, ai nấy sáng rỡ vì vui mừng thấy cô trở về. Họ mau lẹ nhận ra là cô có thay đổi, nhưng chỉ có bà mẹ nói thành lời khi bà kêu to:
– Carol, con yêu, con - trông con khác đi.
– Con không còn như xưa nữa, mẹ à; mẹ không chứng kiến những gì con đã thấy mà không thay đổi.
Cố nhiên họ biết không phải chỉ hoàn toàn là do chiến tranh, mà còn do việc Gordon tử trận nữa.
Một chứng nhân yên lặng trong việc Carol trở về quê nhà là Brainard. Anh thấy cảnh Carol gạt đi những gì gợi nhớ đến mình. Anh biết cô không dửng dưng lạnh nhạt, nhưng chẳng hiểu sao anh ao ước được nghe cô nói không thể sống được mà không có anh. Anh còn tính người tới mức vẫn còn muốn điều ấy lắm.
Khi trôi dạt về nhà, Brainard gặp nhiều khuôn mặt mà anh đã biết. Anh dừng lại trước những cửa hàng ở con đường chính và nhớ lại mình đã ghé vào đây bao lần từ hồi còn nhỏ.
Lúc về tới nhà, chỗ của anh, Brainard bị chấn động một chốc. Khung cảnh có thay đổi, vườn bị bỏ mặc và những chậu cây của mẹ anh ngoài hàng hiên. Anh đi vào nhà và ở đó anh cảm thấy như mình là người lạ. Chỗ tù túng, tối đen này không phải là nhà anh. Anh chưa hề thấy màn cửa kéo kín và thế giới bị chặn đứng bên ngoài như thế này bao giờ.
Anh thấy mẹ trong phòng trên lầu, ngồi lơ đãng trong ghế thẫn thờ. Mẹ luôn luôn là người bận rộn, là bà nội trợ giỏi dang, tất bật.
Anh tìm thấy ba trong phòng làm việc của ông, với tờ báo buổi chiều chưa mở ra hết, còn đặt trên đùi. Tóc ba đã bạc nhiều hơn biết bao, và ba cũng hóa khòm lưng biết mấy ! Rồi ông đứng dậy với cử động của một ông lão. Mới có năm mươi lăm mà lại đi đứng như vầy !
Những dấu hiệu về nỗi thảm sầu trong lòng và tình thương của ba mẹ gần như là quá sức đối với anh. Phải chi anh có thể nói cho ông bà hay là anh đang ở cùng với họ ! Chà, anh phải tìm cách mới được.
Để trấn tĩnh, anh rời khỏi nhà đi lang thang quanh phố một lúc. Anh gặp vài linh hồn của người trước đây đã ngụ trong thành phố, linh hồn còn sơ đẳng chưa tiến hóa, muốn vảng vất cõi trần để tiếp xúc với nhà cũ của mình. Họ vẫn y như anh đã từng biết họ, đó là những linh hồn mộc mạc, có hơi khờ khạo và không có tham vọng. Anh thấy mình không có điểm gì chung với họ, thấy vẫn khác họ từ xưa nay.
Thành phố nhỏ bé ở quê nhà hân hoan chào mừng Carol trở về. Người dân làm những gì họ thể làm để tỏ lòng tri ân công việc của cô tại Pháp. Nào là diễn văn, tặng hoa, buổi dạ tiệc có ông Thị trưởng chủ tọa, trang báo ca tụng sự tận tâm đối với nhiệm vụ của cô.
Có hình của anh ở đầu bảng Tri Ân ở tòa án. Anh là người duy nhất bị tử trận trong số người bị trưng binh của thị trấn này.
Brainard có mặt cùng với Carol trong tất cả những lễ lạc ấy. Anh nghe người ta đọc điếu văn về anh ra sao, và mỉm cười với những lời ca tụng quá đáng về con người mình và lòng gan dạ dũng cảm ngoài trận của anh. Carol chẳng động lòng với chúng. Cô đủ sáng suốt để xem nó có gì quan trọng. Lời hùng biện quá không gợi nên cảm xúc sâu xa chi hết. Giây phút khó khăn nhất cho cô là khi nhìn thấy hình của anh treo ở giữa lá cờ trên tường.
Gia đình Brainard được mời dự lễ, nhưng ông bà không sao chịu đựng được thử thách ấy. Họ chưa chấp nhận sự kiện là đã mất con trai, và bà Brainard chưa thể cảm thấy sự hân hoan mà bà mẹ một binh sĩ đã hy sinh được khuyến khích cảm thấy, khi được tặng một ngôi sao vàng như vinh danh cho vai trò của bà trong việc chiến thắng địch quân.
Trong những hôm ấy, việc Carol đến thăm hàng ngày có ý nghĩa nhiều nhất đối với họ. Tựa như trẻ con, họ bám chặt lấy cô, vì Carol là mối dây mà bằng cách nào đó làm cho con trai ở gần họ hơn. Hai ông bà hỏi cô hết câu này sang câu kia. Để trả lời, Carol khuyên giải hai người bằng cách nói những lời khuôn sáo dùng cho cảnh như vậy, và cô biết chúng chỉ là lời rỗng không. Cuộc sống của ông bà hóa mờ tối phần nào và cô không còn có thể làm nó sáng lên trở lại cho họ.
Gordon thấy hết những điều này, cảm được chúng. Nay anh muốn hơn bao giờ hết cho mẹ anh một cảm nhận là anh hiện diện ở đây, nhưng khi anh tìm cách hướng tâm trí mình vào tâm thức của bà, anh khám phá mình có quá ít lực và không gây được ấn tượng gì cho mẹ. Chuyện hồi hương gây cho anh nhiều đau khổ đến độ làm anh suy yếu đi. Giờ anh tự rủa thầm mình là đã bỏ mất cơ hội tập luyện mà Morton và các giảng viên ở Tổng Hành Dinh đã cho anh. Ngay cả Cummings cũng đã tìm cách cho anh thấy tầm quan trọng của việc nỗ lực gắng công. Nay anh biết chỉ có thể giúp được thân nhân khi anh có thể làm chủ cái trí của mình.
Tình trạng không sao chịu nổi. Anh ao ước được lánh xa chốn này.
Khi tới lúc cho Carol đi nhận chỗ làm ở bệnh viện, Gordon cùng đi với cô trên xe lửa, nhưng anh không còn tìm cách cho cô biết sự hiện diện của mình.
Carol tự khen mình là thời gian nghỉ ngơi ở nhà đã làm cô hồi phục. Chuyện sắp tới là công việc làm. Sẽ có nhiều việc khiến cô bận rộn và về một mặt nào đó cô sẽ giúp những người đáng thương mà cô chăm sóc có được cuộc sống. Ngày nghỉ thì cũng có đủ chuyện để xem và nghe. Cô tạ ơn Trời là gần đây không còn gặp cảnh mộng mị và tư tưởng lạ lùng về Gordon, ngay cả ở nhà, nơi mà khung cảnh quen thuộc có thể làm chúng sống động hơn. Cô sẽ luôn luôn quí chuộng ký ức về anh và cảm thấy đời riêng của mình đã ngưng lại cùng với đời anh, nhưng cô phải không để cho mình bị lụy vì tình cảm, phá hoại sức khỏe, khiến cô sa sút tâm thần không còn khả năng làm việc hữu ích nữa. Vẫn còn cả một thế giới với mỹ lệ và nghệ thuật và cô sẽ vui hưởng nó, sống từng ngày một tới đâu hay tới đó.
Carol là người tình chân chính và tốt lành, nhưng cách xử sự lối mới của cô là cách hữu hiệu về tinh thần cũng như là thể chất và trí tuệ. Không phí thì giờ, không chìu theo cảm xúc vô ích. Cô sẽ sống để phục vụ và tới ngày cuối đời thì sẽ là sự quên lãng thiên thu. Cô đã chới với rụng rời trong những giờ phút đầu tiên khi bị mất mát, nhưng nay cô sẽ không than vãn vì nó sẽ chẳng thay đổi được gì. Gordon đã mất đi vĩnh viễn và cô cũng vậy khi chấm dứt cuộc đời.
Anh bắt được tư tưởng của cô. Bây giờ tình yêu của cô đã phai nhạt rồi ! Chỉ còn là ký ức mỗi ngày một lùi xa. Anh tự hỏi tới chừng nào thì nó bị quên mất hẳn.
CHƯƠNG XXXVII
Không có học viên nào hứng thú với cõi trung giới hơn Cummings. Anh hăng hái quá nên các giảng viên cố gắng hết mình để giúp anh. Ông thầy, Morton, nay trở lại công việc khi trước của mình khi hồi hương sau công tác chiến tranh tại Pháp, thấy Cummings có hứa hẹn là thành viên đáng giá và sáng chói thêm vào đoàn những linh hồn có thể có thành đạt cao. Ông tin rằng Cummings là người khá nhất trong tất cả những tử sĩ ông đã gặp ở trận chiến, vì chẳng những anh có quá trình tốt mà cũng là người có đặc tính tinh thần cao. Cummings không có lòng tin tôn giáo mạnh, anh dửng dưng với tín điều của các tôn giáo khác nhau. Điều mà anh có, ở mức rất đáng kể, là ý thức trách nhiệm đạo đức, và cùng với nó là một niềm tin vào chính cuộc đời.
Cummings đạt được nhiều tiến bộ về khả năng tự mình di chuyển, đến mức anh gần như bằng với đa số các giảng viên về mặt này. Anh cũng có thể tạo được những vật xinh đẹp. Nhưng cố gắng của anh để tạo nên ngôi nhà không có mục đích gì, vì không có ai để chia sẻ với họ. Anh bằng lòng sống trong ngôi nhà mà ba anh đã tạo nên và nay hai ông bà đang sống trong đó. Ấy là căn rập khuôn với nhà của họ ở vùng khá giả của một đại lộ chính tại New York, nơi anh đã sống hồi là chú bé trai. Anh sửng sốt thấy lại phòng làm việc của ba và phòng khách của mẹ, giống hệt với các phòng này mà anh còn nhớ trong ngôi nhà cũ của hai ông bà. Phòng khách chính và phòng đợi cũng được tái tạo giống y. Lẽ tự nhiên không có phòng cho người giúp việc, và không cần phòng ăn hay nhà bếp. Bao nhiêu cuốn sách anh nhớ đã thấy xếp dọc theo tường trong phòng làm việc của ba cũng không còn ích lợi gì. Sách, giống như mọi vật khác, chỉ là hình ảnh của kệ sách nguyên thủy và những hàng sách dài mà ba anh còn nhớ. Đối với người yêu sách, hình ảnh những tác phẩm của văn sĩ họ ưa thích gợi cho họ niềm vui, và giữ cho ký ức về nội dung sách được sống động.
Có vẻ như các bức tranh y như trước cũng treo trên tường trong những phòng khác. Tất cả như anh đã biết khi lớn dần trong nhà.
Mẹ anh có vóc dáng của anh mà đầy nữ tính, cao, da sậm với vẻ đẹp tới mức thanh tú nhất vì nay bà có thể gạt bỏ sự luống tuổi và trông giống như thiếu phụ ba mươi lăm. Ba anh cũng vậy. Cả ba người làm như thuộc cùng thế hệ.
Chuyện hay nhất trong đời Cummings bây giờ là biết rằng anh làm chủ việc đi lại của mình. Anh đến và đi tới bất cứ nơi nào anh muốn. Từ hồi nào đến giờ là người ưa thích du lịch, nay anh có thể viếng thăm trở lại những nơi chốn anh ưa thích và còn nhớ rõ. Khi ông thầy thấy anh có thể điều khiển tư tưởng dễ dàng ra sao, họ lập tức chú ý đến anh. Họ chỉ dẫn anh nhiều thành ra chỉ trong vài tháng, anh làm được những điều mà người trung bình phải mất nhiều năm mới thành thạo.
Anh ưa thích nhất những giờ mà anh dành để tới dự nhiều sảnh đường hòa nhạc, các tòa nhà mỹ lệ tuyệt vời. Ở đó có những chương trình chọn lọc với nhạc hay nhất, do các nhạc sĩ thực hiện, họ có thể nghĩ ra âm của nhạc cụ mình và còn nhớ nhạc phổ. Ban hòa ca thì gồm những giọng hát tuyệt trần. Ca sĩ đơn ca là những nghệ sĩ tiếng tăm lúc còn sống. Rồi có những phòng triển lãm lộng lẫy trưng bầy tranh. Hoặc đó là bản sao của những tác phẩm nổi tiếng của các nhà danh hoạ, hoặc là sáng tạo của trí óc với tư tưởng nguyên thủy. Có những tranh thanh nhã của người chưa hề vẽ lần nào lúc còn sống dưới trần, nhưng lòng yêu thích mỹ lệ đã biểu lộ bằng sự sáng tạo nơi cõi trung giới.
Không cần phải có cửa hàng, vì mọi người tạo lấy y phục cho mình theo ý riêng bằng trí năng. Đôi khi chuyện dẫn tới y trang ngộ nghĩnh. Có người, đã ở lâu nơi cõi trung giới, ăn mặc với lối mà họ đã biết khi sống dưới trần. Rồi còn có người ăn mặc như thời Hoa Kỳ còn là thuộc địa của Anh. Người khác bắt chước theo kiểu y phục của ai mới từ trần. Nhất là các bà các cô có vẻ như thích theo mốt mới.
Có những hội trường lớn và giảng đường nơi những bộ óc xuất chúng, thuộc đủ mọi ngành tri thức, trình bầy về đề tài mà họ là bậc sư. Nhiều người trong thính giả hồi còn sống dưới trần không được học nhiều, và nay có được học vấn mà họ không được hưởng khi xưa. Có nhiều lớp về khoa học. Tất cả diễn ra không cần sách vở hay biểu đồ, bút giấy. Trí tuệ là phương tiện duy nhất, nhưng có việc trao bằng cấp và ban học vị, giống như trong đại học dưới trần.
Nơi hạnh phúc nhất mà Cummings viếng thăm là nhà trẻ. Các bà chăm lo cho linh hồn những trẻ thơ. Mỗi bà coi sóc không quá mười hai trẻ. Các em được dạy coi bà như mẹ và gọi bà chữ ấy. Vì việc làm hoàn toàn tự nguyện, không phụ nữ nào nhận công tác này mà không được gợi hứng với tình mẫu tử nồng nàn. Đa số các phụ nữ là người không có con lúc ở dưới trần, và họ thấy công việc này cho họ được tự do thể hiện bản năng sâu kín nhất của họ.
Nhà trẻ sinh hoạt theo cung cách riêng biệt và không thấy có tính cách như là một cơ sở. Người ta giải thích là những trẻ này thích nghi với sự sống mới rất mau lẹ, và quên đi cuộc sống ngắn ngủi của em dưới trần. Sau ba năm, con trai được mang tới một người cha. Thường thường cha là người đàn ông trẻ tuổi, được huấn luyện và trưởng thành ở cõi trung giới. Anh không có những nét khó khăn dường như gặp nơi người đàn ông đã sống trọn kiếp dài ở cõi trần. Các em trai được dạy cách đảm đương trách nhiệm, trung thành, công bằng và chân thật; và tuân theo một số qui tắc về hạnh kiểm.
Có quá nhiều điều mới mẻ để xem và để học, vô vàn chuyện làm người ta suy nghĩ về trọn cuộc sống khi nhìn từ quan điểm mới này. Tâm trí Cummings bận rộn cả mấy tháng liền, và còn nghĩ rằng cuộc sống này làm anh mãn nguyện.
Chỉ sau khi anh rành rẽ cách thức sinh sống mới này, Cummings mới cảm thấy mình cần tình yêu. Không phải tình thân của bạn bè, cha mẹ vì anh có những điều ấy, mà là một nhu cầu sâu kín hơn, tình yêu của một người đàn bà. Khi mong ước được nhìn thấy Doris, nghe giọng nói của cô, và làm dịu bớt sự đau đớn xé ruột do việc chia ly gây ra, anh sẽ trụ tâm trí vào phòng khách của cô. Chẳng chóng thì chầy sau đó cô sẽ vào phòng và anh sẽ tận hưởng khoảng thời gian ngắn ngủi được gần Doris.
Khi những cuộc viếng thăm phút chốc này qua đi, anh thấy mong muốn cho cô hay rằng anh đã có mặt ở đó. Anh không kiêu ngạo tới mức cho rằng cô sống không có hạnh phúc, nhưng anh biết cô không vui bằng khi trước; kém tươi tắn, và bớt tha thiết khi tiếp chuyện bạn bè. Đời sống cô tựa như hồ nước phẳng lặng, không có xoáy và không có sóng bủa hỗn độn, mà yên tĩnh, lặng lẽ, tiềm thức ngủ yên. Anh biết rõ là những lần tới thăm ấy không có lợi gì. Anh thường quyết tâm là có can đảm đủ để chấm dứt chúng. Tuy nhiên có sự ước ao mạnh mẽ, choáng ngợp là muốn cho cô hay rằng anh đang sống.
Phải chi anh có thể tìm được ai đó như Flanagan, ai có thể thấy và nghe được anh ! Rồi anh có thể gửi mẫu tin cho cô để cô biết rằng anh vẫn còn sống; và sau đó vài lời rằng anh yêu quí cô. Trên hết thẩy anh muốn cô biết điều ấy.
CHƯƠNG XXXVIII
Potter là người rất dễ bảo khi ngủ. Lúc thức thì anh là nỗi kinh sợ của các học viên. Ai cũng phải là học viên hầu có thể sống đời không lệ thuộc vào lòng phước thiện tâm trí của người khác, hoặc chỉ sống ở một chỗ.
Người phụ trách công việc đã đánh thức anh dậy. Được tỉnh táo và sung sức nhờ giấc ngủ dài, nay Potter sẵn sàng có cuộc sống nơi cõi 'Thiên đường'. Anh mãn nguyện lắm. Trọn cả đời anh đã chuẩn bị cho việc này. Giờ không có gì ngăn cấm anh nữa; bao tính nhút nhát, tự hoài nghi đã tan biến theo với thân xác. Anh đã giao ước với Thượng đế và nay sẵn sàng giữ lời. Ai phụ trách chuyện này đã buộc lòng phải làm cho anh thiếp ngủ, với vài người nữa cùng loại, để rảnh tay lo cho những binh sĩ khác. Họ hy vọng là khi tỉnh giấc anh có thể thay đổi tính tình. Họ không biết gì về anh cả.
Potter xem hết các giảng viên và mấy ông thầy như là quỉ dữ, là tôi tớ của quỉ sứ trong thần học của anh, sẽ bị anh, người con dũng cảm của sự công chính đánh bại. Anh không đếm xỉa gì tới chỉ dẫn hữu ích của họ. Anh còn không lắng nghe. Potter xem lời khuyên và lời giải thích về cách dùng cuộc sống bên nây như là bẫy của Satan. Anh cương quyết dùng ý chí cứng rắn của mình chống lại hết thẩy những gì được nghe.
Winfred Brandon
We Know These Men
(còn tiếp)