CUỘC SỐNG NGOẠN MỤC CỦA TINH LINH (Fairies at Work and at Play)

CUỘC SỐNG NGOẠN MỤC CỦA TINH LINH - Phần 1
Fairies at Work and at Play - Geoffrey Hodson
Thanh Thiên dịch

CHƯƠNG I         Brownies và Elves
CHƯƠNG II       Gnome
CHƯƠNG III      Mannikins
CHƯƠNG IV      Thủy Tiên
CHƯƠNG V       Tiên Nữ
CHƯƠNG  VI     Thiên Tiên
CHƯƠNG  VII    Thiên Thần

 

Chương I
Brownies và Elves

Các chú lùn brownies mà tôi quan sát có chi tiết thay đổi đáng kể, nhưng luôn luôn có một số đặc tính chung không thể nhầm lẫn được.
Y phục lúc nào cũng thấy thuộc thời trung cổ không thay đổi, gồm áo nâu ngắn, đôi khi cổ lá sen rộng, nút bóng loáng, quần có giây đeo mầu nâu ngắn tới đầu gối, vớ thô, đôi khi mang đôi bốt nhà nông nặng chịch, lúc khác thì đôi giầy nhẹ nhàng hơn, mũi dài và nhọn. Các kiểu giầy còn thay đổi theo câu chuyện sẽ tả về sau.
Nón hay đội có chóp nhọn, dài, có khi nón cứng vành sụp thay cho nón đội lúc ngủ giống như làm bằng da hươu thường đội. Ở các nhóm làm việc bận rộn hơn, ta thấy có mang yếm gần giống như yếm thợ rèn.
Hình thể brownies thay đổi, có nhóm lùn, bè người, thân tròn mập và chân tay ngắn. Nhóm khác ốm coi trẻ trung. Chúng cao từ 10 đến 20 cm. Thường thường có gương mặt người già, lông mày xám, có râu mép, râu cằm, nét mặt đỏ, người coi vẻ dạn dầy. Mắt nhỏ và mỏi mệt, trọn gương mặt hiền lành, giản dị và hơi ương ngạnh.
Về tính tình chúng là sinh vật ưa trò chuyện và thân mật, sống thành bộ lạc và như hầu hết dân cư thần tiên, rất hay bắt chước thói quen, quần áo, cách làm việc và cách chơi đùa của người. Tính tình thuộc về đất, có nhiều nét đơn sơ mộc mạc của nhà nông, nói chung thì vẻ ngoài của chúng chắc chắn phỏng theo dân quê vào thời trung cổ. Ta không rõ sinh vật đóng vai trò gì trong sinh hoạt của thiên nhiên, nhưng hay gặp chú lùn ở trên hay sát dưới mặt đất và ở giữa rễ cây, bụi cỏ.
Tôi thấy chúng đào rất chăm chú giữa rễ cây đang lớn, nhưng trọn hoạt động của brownies lại biểu lộ vẻ nghiêm trang giả vờ, làm bộ, như trẻ con chơi trò người lớn, nên không sao biết rõ là chúng đang làm việc hay đang chơi. Những lần gặp gỡ chúng được thuật lại dưới đây có thể giúp ta hiểu phần nào về sinh vật.

Một Làng Brownies
Trong rừng dầy cây sồi và hạt dẻ, cây du.
Lake District. June 28, 1922.

Trên bờ dốc đứng của một vách đá ở bờ phía tây của Thirlmere có một làng brownies đông đảo; chúng ở ngay bên dưới mặt đất. Tôi thấy một số nhà bé tí xíu, chỉ ngay dưới mặt đất của sườn đồi. Nhà thật khang trang, phần lớn có dáng vẻ bằng gỗ, mái lợp lá có cửa sổ và cửa ra vào. Chúng rải rác không đều trên sườn đồi, có brownies đi lại chung quanh nhà và giữa rễ cây cùng đất đá. Tôi chọn đại một chú lùn và dưới đây là phần quan sát về chú.
Sinh vật cao chừng 15 cm, trông giống như ông lão, đội nón nâu có chóp rũ xuống như nón đội khi đi ngủ, mặc bộ quần áo nâu, mang vớ và bốt. Gương mặt có râu xám, trông như dân quê mộc mạc thuở xưa. Chắc chắn đó là do chúng bắt chước cảnh thôn dã, tuy tôi không thấy một bà brownie nào trong làng thần tiên này. Brownies đông nghẹt trên sườn đồi nhưng không khác nhau mấy về hình dạng, vẻ mặt hay óc thông minh. Dường như chúng ở đây từ lâu lắm rồi. Chúng khác những chú lùn tôi đã thấy khi trước, ở điểm chúng không có vẻ như làm việc gì có liên hệ với sinh hoạt của thiên nhiên; tuy chúng quý chuộng cây nhưng không thấy chúng làm việc gì cho cây cả.
Một chú lùn tính còn trẻ con sống ở vùng này giờ tiến lại gần tôi, đứng bên phải chừng gần một thước, đang muốn ra vẻ ‘ta đây’ bằng cách hoa chân múa tay với óc khôi hài thật giản dị. Chú ốm hơn hẳn so với các brownies có vẻ lớn tuổi hơn, và cũng có thêm mầu sắc, nón mầu đỏ hình chóp buông thõng ra sau lưng và bộ áo nâu có lẫn chút xanh lục. Tôi thấy khó mà tin chú là brownie, vì bàn chân thuôn nhọn ở đầu, ống chân dài lỏng khỏng, tay lớn quá khổ so với thân hình. Sinh vật đặt tay trái lên hông, lấy tay phải chỉ về hướng khu rừng như hãnh diện phơi bày vẻ đẹp của chốn đây; ta thấy thêm vào lòng tự phụ còn có sự huênh hoang và thói tự mãn trẻ con. Mặt nhẵn nhụi đỏ hồng, mắt nhỏ, mũi và cằm nhô ra, môi rất rộng và lại càng rộng hơn nữa khi nở nụ cười. Cử chỉ và dáng điệu chú lùn thật kinh ngạc. Thân hình dẻo tới nỗi chú có thể uốn ngửa hay vặn vẹo thành bất cứ tư thế nào.
Tôi không thể khuyến dụ chú tiến lại gần hơn vì tinh linh lập tức tỏ ra ngần ngại. Chú tỏ vẻ không thoải mái nên tôi nghĩ  chú sợ hãi thực. Hào quang của người bất hòa đối với chú, và có lẽ tinh linh bị mất thăng bằng khi đứng bên trong nó. Ngược lại tôi ý thức là hình dạng chú thật mỏng manh như sương khói, phù du như hơi gió thoảng mà lại có đường nét rất rõ, với chi tiết sắc nét.
Nhìn lại làng brownie và cố gắng nắm lấy chi tiết, tôi bắt gặp vài chuyện lạ lùng, thí dụ khi nhìn sâu vào nhà bọn chúng, tôi ngạc nhiên thấy bên trong không có gì, tức là khi bước qua cửa vào nhà thì chỉ thấy trống lổng ! Hình dạng cái nhà bên ngoài thật nên thơ, đẹp đẽ, nhưng bên trong chỉ là khoảng tối đen. Ảo tưởng về ngôi nhà mất biệt khi ta trụ tâm thức vào bên trong căn nhà, trọn cái mà ta thấy được là những đường từ lực thanh nhẹ tuôn chảy. Tinh linh bước qua cửa vào nhà rồi bỏ dạng brownie và chìm sâu vào lòng đất trong trạng thái vô dạng. Cả bọn có vẻ như bận rộn, đi tới lui trong vùng giả vờ tất bật lắm, nhưng theo tôi đó chỉ thuần là tưởng tượng. Thấy như chúng không liên lạc chuyện trò nhiều với nhau, ai nấy chăm chăm chỉ biết có mình mà thôi.
Nhà cửa không thuộc về một ai hay nhóm nào, bất cứ tinh linh nào cũng dùng được, ‘dùng’ đây chỉ có nghĩa là đi ra hay đi vào qua cửa. Chúng tỏ vẻ hài lòng khi ngắm nhìn bề ngoài mấy căn nhà. Tôi không thấy chú lùn có dụng cụ làm việc, túi xách hay yếm như đã thấy ở những dịp khác. Thấy như chúng kém thông minh hơn và chưa tiến hóa bằng các brownies khác mà tôi đã gặp, cũng như vị kỷ hơn và sống vẩn vơ không mục đích hơn bọn khác.

Brownie Trong Nhà
Preston. January, 1922.

Vài tuần qua nhà tôi và tôi cảm biết sự hiện diện của một brownie trong nhà. Mới đầu tôi thấy sinh vật trong bếp trên kệ, rồi sau đó ở lối đi và phòng khách. Chú nhỏ có bề ngoài và tâm thức khác đôi chút với brownie làm việc mà chúng ta đã nói. Tối nay chú vào phòng khách xuyên qua cửa đóng, tôi thấy chú đi qua lại cánh cửa mấy lần. Chú nhỏ bắt đầu chạy giỡn quanh phòng, và thỉnh thoảng những vệt lóe sáng ở cõi ether đi kèm với cử động lanh lẹ của chú làm tôi chú ý. Nhìn brownie tôi đoán là những cử động ấy biểu lộ nỗi hân hoan của chú khi tôi về nhà sau khi đi vắng ba ngày. Rõ ràng là chú đã coi mình như người nhà, lại có ý rằng chú đã coi chúng tôi như người thân của chú. Chuyện làm chú sung sướng lắm, và tìm cách tỏ ra ý là chú thuộc nơi này.
Brownie cao chừng 13 - 15 cm, đội nón chóp nhọn mầu nâu giống như làm bằng da hươu, lệch sau đầu. Mặt nhẵn nhụi, sáng sủa trẻ trung, tươi mát và mắt nâu sậm. Cổ hơi dài và ốm theo cái nhìn của chúng ta. Chú mặc áo có đuôi sát người mầu xanh lục, quần dài tới gối có dây đeo, vớ dầy mầu nâu xám, lúc này đây chú mang bốt rộng có hơi quá khổ so với thân người.
Chú nhỏ rất linh hoạt, thân mật và rõ ràng là có cảm tình với chúng tôi, tuy bình thường chúng tôi không biết sự hiện diện của chú. Tôi đoán nhà bếp là chỗ của chú nhỏ, và nhìn thấy nồi niêu, soong chảo vì lẽ gì đó làm brownie thích thú. Và cũng không giống như những chú lùn đã gặp trước, sinh vật không thuộc vào một bầy, và xem ra không có bà con thân thuộc. Tôi vừa nói xong như vậy thì chú đang ngồi từ lúc đầu tôi khởi sự tả chú bỗng nhìn lên, lộ ra vẻ thật rõ ràng là về riêng phần chú, chú coi chúng tôi là người thân họ hàng.
Tinh linh nghĩ ra trò chơi riêng, tự vui đùa lấy một mình. Theo cách của chú, tinh linh lý tưởng hóa ngôi nhà, lò sưởi, chuyện trong nhà, và rất thỏa mãn là chú thuộc về ngôi nhà. Trí thông minh của chú trẻ thơ một cách kỳ lạ, không có óc lý luận và có rất ít cái mà ta gọi là bản năng ở loài vật. Sinh vật chơi đùa, giải trí theo óc tưởng tượng của mình, và khi làm vậy thường rút vào một góc nhà không còn màng đến những gì bên ngoài thế giới tư tưởng mà tinh linh tự tạo cho mình. Tôi thấy nó giống như khối sương ảo tưởng mầu xanh tím nhạt, bao phủ chú tựa cái kén rộng; trong đó tinh linh chơi đùa như trẻ con chơi gạch xây nhà. Chú biết điều chúng tôi rời nhà hay về nhà, và tỏ ra rõ nhất khi vào dịp gần đây chúng tôi sửa soạn đi xa mười ngày. Ngoài việc nhận ảnh hưởng của hào quang con người lên mình tôi không thấy sự hiện diện của chú có mục đích gì. Không giống như chuyện thần tiên, không thấy chú làm việc gì phụ giúp trong nhà cả ! Dù không hiện ra bằng xác thân vật chất, tinh linh có thể làm cho thân xác thấy rõ hơn và biến đổi từ hình thể vừa nói thành cái thanh nhẹ hơn.

Để Tạo Đôi Bốt Thần Tiên
Helvellyn. November 1921

Trong bầy tinh linh ở sườn đồi này kẻ chúng tôi thấy đầu tiên là một brownie đã già, vừa khi chúng tôi ngồi xuống thì chú đi ra ngoài bìa cánh rừng thông nhỏ sau lưng chúng tôi.
Sinh vật cao chừng 15 - 20 cm, đội nón chóp nhọn, giống như hình nón không hoàn hảo mấy, mặc áo khoác mầu xanh lục, gấu lượn hình vỏ sò phủ tới hông có viền nâu; áo cài nút có cổ rộng cũng cắt hình vỏ sò ở bìa và viền, thêm cái quần nữa là đủ bộ. Mới đầu chú lộ ra đôi chân giống elf (tức là dài và thuôn nhọn ở đầu), râu thưa dài mầu xám, cả gương mặt và thân hình ốm và khắc khổ hơn các chú lùn thường thấy. Chú gợi tôi nhớ đến hình tựa Chú Sam của nước Mỹ.
Tinh linh chú ý nhiều đến con chó của bọn tôi, tiến lại gần mũi nó không sợ tí nào. Hình như chú không thể nhìn chúng tôi như là một nhóm. Chú biết có người, nhưng cái chi tiết đầu tiên làm tinh linh để ý là loại bốt nhà binh tôi mang bằng vải có đế cao su. Nhìn kỹ đôi bốt rồi, tinh linh bắt đầu làm cho mình một đôi khá giống mà chú rất hãnh diện. Hình tư tưởng đơn giản của chú đủ thành hình đôi bốt tương tự phủ chân mà chú ngắm rất hãnh diện. Sau khi nghênh ngang đi tới lui một chốc như để quen chân, tinh linh bước vào rừng.

ELVES

Tôi có rất ít kinh nghiệm về chú lùn, chỉ có hai quan sát ngắn dưới đây về loại chú lùn không thường gặp ở miền quê, nơi tôi đến để nghiên cứu. Elf khác những tinh linh khác ở điểm không thấy mặc quần áo giống người, và thân hình chúng như làm bằng một khối thạch cứng, hoàn toàn không có nội tạng.

Elf Rừng
Dưới cây du trong rừng tại Cottingly. August, 1921.

Hai chú lùn rừng nhỏ bé chạy trên đất ngang qua chúng tôi, khi chúng tôi ngồi trên thân cây nằm trên đất. Thấy bọn tôi, chúng dừng lại, cách xa chừng 1,7 m rồi đứng ngó thích thú lắm mà không sợ chút nào. Coi sinh vật như mặc quần áo sát da bó chặt, phản chiếu ánh sáng như bị ướt và có mầu vỏ cây. Thấy nhiều tinh linh như thế chạy đuổi trên đất. Tay và chân rộng quá khổ so với thân hình. Ống chân ốm, tai to kéo ngược nhọn lên trên tới mức có hình quả lê. Mũi cũng nhọn và môi rộng. Không có răng, không có gì trong miệng, tôi không thấy lưỡi, làm như thể cả người chỉ là một khối thạch. Chúng có hào quang nhỏ mầu xanh lục bao quanh. Hai tinh linh chúng tôi để ý sống trong rễ một cây du khổng lồ, sinh vật chui mất vào lổ hổng, đi vào đó như ta đi vào hang, rồi chìm sâu xuống đất.

Elf Biển.
Blackpool. July, 1921
Có những chú chú lùn thân hình kỳ quặc đang chơi đùa trên bãi giữa đám rong biển và đá. Đầu to, mặt hơi choắt giống chú lùn, tai rộng, thân hình nhỏ, tròn và ngắn, ống chân ốm với bàn chân gần như có màng. Chúng cao từ 8 - 15 cm, quen thuộc với người và không hề bị quấy rầy vì sự hiện diện của người. Thấy như chúng không đi xuống biển.

CHƯƠNG II
GNOME

Gnome (chú lùn) thường được coi là tinh linh đất. Tìm hiểu cho thấy có nhiều sự khác biệt trong mỗi loài tinh linh đất, nước lửa v.v. nên trong khi mô tả tôi xếp các sinh vật vào loài chúng gần giống nhất. Trong chương này có thí dụ về tinh linh cây và mannikin có cánh, tuy chúng có nhiều điểm quan trọng khác với gnome thông thường. Dầu vậy, thân hình chúng xét ra gần với gnome hơn là với các loài khác. Vì vậy tôi sẽ cho vào loại gnome một số những sinh vật khác với gnome thường nói về nhiều mặt.
Gnome thường ốm lỏng khỏng, hình dung cổ quái, gầy khẳng khiu xương xẩu, và thường sống một mình tuy không phải luôn luôn như vậy. Nhìn nó ta có cảm tưởng sinh vật già lão lắm; trọn bề ngoài, dáng đi và quần áo rất đỗi xa lạ với ngày nay. Theo con mắt chúng ta tay sinh vật quá dài, và giống như đôi chân, cong ở khớp tựa như hóa cứng ngắc vì tuổi già. Da rất thô và sần sùi, mắt đen, nhỏ, hơi xếch. Người ta nghĩ rằng gnome là tàn tích của Atlantis cổ xưa và nếu đúng vậy, có lẽ chúng tượng trưng cho hình dạng người thời đó, và tuy có vẻ cổ quái đối với chúng ta, lại là vẻ đẹp mẫu mực khi ấy.
Gnome đất chính hiệu không phải là tinh linh dễ thương, những sinh vật gặp ở Anh hoặc đen tuyền hoặc nâu sậm và dù tôi chưa hề thấy chúng tỏ ra thù nghịch, bầu không khí rõ ràng chẳng thoái mái chút nào.

Gnome Cây
Trong ruộng gần Preston. September, 1921

Sống trong phần dưới của cây trần bì có một chú gnome. Thấy chú to hơn hẳn những gnome khác tôi đã gặp, khoảng 75 cm tính tới đầu nón. Chú lấy hình gnome khi sửa soạn rời cây để đi chơi ngoài đồng. Chú đi ngang qua đồng lẹ làng, hơn 30 km / giờ nhưng dù đi mau như vậy, có vẻ như chú chọn lựa kỹ trong đồng cỏ, bước những bước dài nhấc cao chân trong không.  Sinh vật đang vui, nghĩ tới mình, tới cái cây đang ngụ và cuộc đi chơi này, sâu hơn nữa trong tiềm thức chú nhớ tới trò chơi thường là đơn độc bên dưới cành lá của cây. Những kỷ niệm này và lòng mong chờ kèm theo làm tăng thêm nỗi vui của chú. Thấy không có điều gì khác ngoài niềm hân hoan trong trí. Tinh linh sung sướng với chính mình. Chú không cần bạn đồng loại để có hạnh phúc. Vì vậy hạnh phúc của gnome vững chắc và hằng hữu, hiện giờ thấy như gnome hết sức hài lòng.
Có vẻ như sinh vật sống đã lâu lắm rồi, thời gian không ảnh hưởng gì đến gnome về cả thân xác lẫn tâm thần. Khi tìm tách liên lạc với gnome trong lúc chú ở trong cây, tâm thức tôi cảm chuyện lạ lùng; thân cây bỗng hóa trong suốt, với gnome ở giữa như trong một cái hộp bằng kính, duy cái khác biệt là chất liệu ở bề mặt tiếp tục cứng chắc xuyên qua cây; phần thể sinh lực này của cây mầu xám nhạt có lẫn chút xanh lá cây. Khi ở trong thân cây dường như gnome bỏ đi hình dạng thông thường. Thân cây thấy giống như hình trụ, mà nếu không có gnome sẽ chỉ có một mầu là sinh lực của cây; sự hiện diện của gnome làm những lực này có tính cá biệt, như thể chúng bị làn rung động của sinh vật ảnh hưởng mạnh mẽ.
Khi gnome muốn rời cây đi ra ngoài, cái đầu tiên tôi thấy là chú nhỏ chậm chạp khoác lấy dạng gnome, có nghĩa tạo cho mình một lớp vỏ bằng vật chất đậm đặc hơn. Xong rồi sinh vật bước ra ngoài lên mặt đất, và chỉ khi ấy tôi mới tiếp xúc được với chú như là một cá nhân riêng biệt. Mặt của chú dài và nhọn, nhất là cằm, gò má cao nhô ra, gương mặt mỏng vêu vao như xác khô, mắt xếch người Tàu, con ngươi đen và nhỏ, tai to nhô lên bên trên nón, tóc mầu sậm. Nón có chút mầu đỏ còn thì trọn người chỉ đơn độc một mầu là mầu vỏ cây. Khi ra khỏi cây tinh linh vẫn giữ liên lạc từ tính với nó, và tôi thấy chú lùn chỉ đi được một khoảng cách giới hạn. Có vẻ như thể sinh lực của cây được dùng để tạo nên thân thể của chú, nên khi chú đi ra khỏi cây thì thể sinh lực của nó dãn dài ra theo. Đó là cái tôi thấy hiện giờ nhưng có lẽ có những lúc chú được hoàn toàn tự do. Thấy chú đi vào bên trong thân cây là chuyện lạ lùng, nó giống như ta bước qua cánh cửa vào nhà. Tinh linh luôn luôn đi ra khỏi cây ở cùng một chỗ và một hướng là hướng nam.

Gnome Đá
Lake District. June, 1922.

Ẩn sâu trong đá tảng sau lưng chúng tôi có một sinh vật chỉ thấy như là những đốm mầu không hình dạng, tựa như gnome còn trong giai đoạn phôi thai; đầu có đường nét lờ mờ với mắt và miệng, nhưng phần còn lại của thân hình chỉ thấp thoáng, giống như nét phác họa của nhà nghệ sĩ cho vệt mầu trước, còn thì chừa lại những đường nét chính về sau. Nhưng căn cứ trên những đường này cho thấy sinh vật hết sức xầu xí, giống quái vật. Nhìn ở cõi ether trọn hòn đá trong suốt còn sinh vật ở trong đó như trong cái bình khổng lồ bằng pha lê, và nó chỉ cảm nhận mơ hồ khung cảnh xung quanh. Phần ý chí duy nhất mà sinh vật có, lộ ra trong việc nó chậm chạp đổi hướng và trụ cái tâm thức giới hạn và mù mờ của mình, mà  nó làm vậy một cách mơ màng không rõ rệt. Mầu chính và rất đậm là đỏ, lục và nâu, cho ra gợn sóng nhẹ đáp ứng với tâm thức đang chậm chạp khơi tỉnh.
Sự hiện diện của sinh vật làm tảng đá có tính cá biệt, thấy rõ ở cõi trần dưới dạng rung động từ lực. Khó mà đoán kích thước nhưng có lẽ sinh vật cao từ 3,5 đến 5 m. Đôi chân chôn chặt sâu dưới đất chỗ hòn đá nằm, còn đầu nhô bên trên hòn đá khoảng ba thước

Gnome Trong Nhà
Lake District. June 1922.

Trong khi ngắm các tinh linh tôi chú ý đến một hòn đá ở xa chừng 40 m, phía dưới có một chú gnome sống trong lòng đất. Tôi bắt gặp lúc chú biến vào hòn đá. Hình dạng cổ quái mầu nâu xám, bé tí mà giống người một cách kỳ cục, đội nón có chóp nhọn thả rơi ra phía trước như thể vì sức nặng của chùm tua ở chóp; chú có gương mặt của ông già, mỏng, khô đét, cằm bạnh, râu xám dài. Tinh linh mặc bộ quần áo xám với áo khoác phủ tới dưới lưng mà thôi. Tay phải chú lùn cầm đèn tựa như cây nến, chiếu ra ánh sáng vàng.
Chú đi sâu vào lòng đất khoảng 1 m bên dưới hòn đá, bước tới lui không bị cản trở. Chú đã thấy nhà của người và tưởng tượng là nơi này là nhà của chú và chú cần đèn. Tôi nghĩ là gnome có lần thấy người ta đi ngủ và giờ bắt chước làm vậy, coi điệu bộ nghiêm trang của chú thật bắt cười. Thấy như sinh vật không có việc gì làm; chỉ đôi khi chú đi xuống bờ suối cách đây chừng 40 m.
Bây giờ lúc tôi đang ngắm, chú hiện trở ra với cái nón mới. Kỳ này nó là cái mũ cao. Óc tò mò phát triển cao độ, chú lén đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, quan sát thói ăn ở của người và dù không có óc thông minh để suy luận từ chuyện thấy được, chú nhớ kỹ và bắt chước nhiều hành động hằng ngày của người mà chú biết. Lúc này đây tôi hiểu tại sao khi nhìn chú tôi lại nghĩ là chú đội nón ngủ và sửa soạn lên giường; chú bắt chước người làm vậy chỉ để vui đùa, vì chú không cần nghỉ ngơi, đội nón hay có đèn, không cần giường hay phòng ngủ, trừ cái ký ức còn đậm trong óc. Khả năng tập trung tư tưởng yếu ngay khi chú chui xuống mặt đất, cử chỉ và ngay cả hình dạng thay đổi và chú hiện trở ra mặt đất với một loại tưởng tượng mới. Kỳ này chắc nghĩ là đi dự lễ nên chú đội mũ cao ! Ngay sau đó mặt chú có vẻ thẫn thờ, cạn ý và cả hình dạng cũng biến mất.
Vài phút sau tôi thấy chú đi mau lẹ xuống sườn đồi xách theo cái xô nhỏ, chú trịnh trọng múc nước rồi xách về hòn đá. Sinh vật trở ra tức thì nhưng lần này không có cái xô, đi cách mặt đất chừng 7 tấc, mau lẹ ra hồ rồi tôi mất bóng. Lẽ tự nhiên cái xô và nước trong đó chỉ là hình tưởng tượng, ‘nước’ thật ra giống như làn sương hay khói xám trong xô. Cuộc đời chú lùn hình như chỉ toàn là những buổi dạo chơi liên tục, mỗi cái đều có mục đích dặc biệt, có khi hết sức rõ ràng, có khi thật mơ hồ. Chuyện gì chú làm cũng đều là bắt chước người. Thấy chú có cảm tình thân ái với đá, cỏ và đất, những vật làm nên nhà của chú và ở quanh đó.

Gnome Nhẩy Múa
Trong cánh đồng gần Preston. Sep. 1922.

Ở đây thấy vài chú lùn có mức phát triển thấp hơn gnome trong cây. Chúng nhỏ hơn, cao khoảng 10 - 15 cm. Sinh vật khác gnome cây ở điểm chúng không sống riêng rẽ mà quây quần và chơi đùa thành bầy, cách chơi và những trò của chúng coi lạ lùng, rất đỗi kỳ quặc. Các chú có mầu sắc tươi vui, dùng nhiều mầu sáng và mạnh hơn tiên nữ. Tôi đang ngắm một nhóm nhẩy theo hình bán nguyệt; chúng nắm lấy tay nhau và nghiêng người bên này rồi bên kia; chân không thẳng, đầu gối đẩy tới trước. Tay dài quá khổ và không suông ở cùi chỏ. Gnome cười khờ khệch như trẻ con, mắt đục sậm mầu long lanh một vẻ quái dị, làm như chúng đang tận hưởng ngất ngây trong lòng. Cánh giống như cánh dơi, mở rộng sau lưng và đâm ngang có mầu đậm hơn thân hình, có lông mượt rất mịn.
Thấy như việc tiếp xúc với nhau, đu đưa thân hình dù không có mục đích gì ở cõi trần, lại cho ra nỗi vui cao độ ở cõi tình cảm. Tôi thấy nó khích động và thúc đẩy thể tình cảm, cái chỉ là một đám mây lớn gấp đôi thể xác, không có xếp đặt thứ tự. Chắc rằng việc nhẩy múa sinh ra một lực rung động ảnh hưởng lên thể.
Lúc nghỉ ngơi, hay đứng yên chốc lát, thể tình cảm gần như là một khối mây không có hình dạng rõ rệt; chỉ có một chút mầu và thể chiếu tựa ánh trăng. Có mầu đỏ và hồng, chút vàng giống như lá mùa thu, và nâu của sét rỉ. Khi ngất ngây trong lúc nhẩy, ở giữa thể tình cảm chỗ tùng thái dương (solar plexus) khởi sự phát ra rung động, cuốn hút trọn thân hình làm linh hoạt khi nó lan khắp người bằng những lượn sóng. Mầu khi ấy đậm hơn, hào quang nở to thêm và gnome cảm nhận hết sức mình kết quả sinh ra từ việc ấy.
Đột nhiên chúng thay đổi cử động dù vẫn giữ hình bán nguyệt. Bây giờ chúng nhẩy tới lui, nhấc cao và uốn chân rồi dậm chân trên đất theo cử chỉ tuyệt diệu và rất buồn cười. Có vẻ như chúng chỉ ý thức ánh mặt trời chói lọi và sức sống trong bầu không khí.
Tinh linh không có nét nhanh như chớp của tiên nữ, hay ít nhất của elf rừng. Chúng hình dung cổ quái, cứng đơ và cử chỉ thật xưa. Dầu vậy chúng có khả năng di động mau lẹ trong không gian như các sinh vật cõi ether và tình cảm.

Gnome Đầm Lầy
Wrynesdale, khu đầm lầy rộng chung quanh có đồi.
November, 1922.

Có một bầy gnome di chuyển đó đây trong cỏ hoang cao và những bụi lác, chúng có nhiều nét khác thường.
Chúng cao khoảng 45 - 75 cm; dạng nam và chỉ có một mầu là mầu nâu sậm như than đất, chất ở đây có nhiều. Mặt và tay cũng mầu y vậy. Nón dài chóp nhọn, vành rất hẹp cong lên, nón ôm sát đầu và chóp thả ra sau. Gương mặt rất rõ nét, nổi bật, đặc biệt là mũi nhọn và cong, đầu mũi nở to lớn khoảng 2,5 cm đường kính. Cằm cũng lộ, nhô ra, môi rộng giống như lúc nào cũng cười. Da thô, lùng nhùng. Mắt đen, tinh anh và xếch. Hình như chúng có y phục nhưng giống y như da. Áo cổ lọ, ở cổ tay và đầu gối cũng uốn lên; bắp chân, mắt cá và bàn chân là một khúc chung, bàn chân thuôn lại thành một điểm nhọn dài khoảng 20 cm. Tay chân lỏng khỏng đi bước dài, nhưng thấy rõ là chúng cũng có thể bước mau lẹ trong không vì tôi thấy vài chú đi như thế, lướt trên mặt đất.
Một chú tìm cách chặn tầm mắt của tôi. Từ đầu ở giữa trán sinh vật phát ra một dòng sương sáng rực mầu xám, dính vào hào quang của tôi  và tạo thành một đám mây mờ trước mặt tôi; chú tiếp tục phát ra sương mà nếu tôi chỉ nhìn bằng nhãn quan cõi ether thì chú ngăn được. Khả năng tập trung tư tưởng thật đáng kể. Chú đứng cách xa khoảng 15 m và bao bọc nhóm ít người chúng tôi trong màn sương, chắc nó che bọn gnome khỏi chúng tôi. Hiển nhiên là chú không muốn chúng tôi quan sát, không thích bị nhìn kỹ và cảm thấy bực mình. Những tinh linh khác tiếp tục đi tới lui trong đám cỏ; không thể nói là chúng đang chơi đùa dù chúng tỏ vẻ thích ánh nắng và dường như phải di động luôn luôn, tôi không thấy chúng di chuyển nhằm mục đích gì.
Ở đây cũng thấy tính bắt chước, và thấy rõ là chúng ngắm bọn tôi lúc chúng tôi băng qua cánh đồng, bởi tôi thấy vài chú gnome mang cái giỏ khá giống cái chúng tôi xách theo có đựng thức ăn. Làm vậy thì chúng thích lắm, biểu lộ bằng cái cười gần như ngây ngô. Bây giờ có tới cả chục gnome qua lại với giỏ làm chuyện hóa rồ !
Tinh linh thuộc về đất, đất là chỗ ở của chúng; tôi nghĩ gnome không bay cao hơn chiều cao của chính mình trong không. Cố nhiên là đất không cứng đặc đối với gnome, vì vài chú đi quanh quẩn với mắt cá và bàn chân lún sâu bên dưới mặt đất không chút vướng víu. Đi sâu vào tâm thức chúng ta thấy sinh vật hết sức cổ sơ và thật hạn hẹp. Không dễ gì hiểu được cách chúng tiến hóa, vì xem ra thiên nhiên không tạo nên cản trở nào cho gnome, và chúng muốn điều gì là thực hiện được điều ấy.
Khi tôi tìm cách tiếp xúc với tâm thức chúng bên dưới mặt đất, thấy như chúng tan rã, mất nét cá biệt, hòa tan vào một tinh chất chung lúc chìm sâu xuống đất. Bên trong cái chất chung đó, nhiều khối cầu thành hình di động đó đây bên dưới mặt đất rất tự do, và khi đi theo một cái như vậy, tôi thấy lúc trồi lên mặt đất nó lập tức có hình gnome với kích thước như cũ. Tôi không thấy việc biến hình này là do nỗ lực trí tuệ nào, và tôi cho nó là chuyện tự động. Có vẻ như chúng biết việc sẽ xẩy ra như thế, tuy tôi không thể khám phá là sự hiểu biết ấy là nguyên nhân hay là kết quả của hiện tượng. Bầy gần như hoàn toàn được linh hoạt bằng tâm thức nhóm và bản năng như ở bầy thú vật.

CHƯƠNG III
MANNIKINS

Đây là tên đặt cho tinh linh có dạng nam không thể xếp vào loài gnome, brownie hay elf, nhưng lại có vài đặc tính của cả ba loại này, cộng thêm vài tính chất của riêng chúng. Vài kẻ có gương mặt của gnome, quần áo của brownie và bàn chân nhọn đầu của elf
Mannikin có liên hệ với cây, bờ rào, cụm hoang, cỏ, hoa dại. Những kẻ làm việc với cây thường ở trong thân cây hay cành, ngay bên dưới vỏ cây, chúng đi vào cây để nghỉ ngơi, mà cũng để làm việc liên quan đến sự tăng trưởng và nhuộm mầu lá với cành cây.
Mannikin của cây dại và cỏ gần như lúc nào cũng mặc quần áo xanh lục, mặt chúng giống như của trẻ con lên ba, bầu bĩnh, lộ vẻ tươi cười sung sướng. Luôn luôn đội nón nhỏ mầu lục, mắt sáng và đôi khi thấy đôi tai nhỏ, nhọn đâm ra bên trên nón.
Có hai lần tôi gặp mannikin không có vẻ thân thiện như vậy. Mặt thô kệch, mũi to và cong, mắt xếch hẹp lại hành một đường cho ra vẻ tinh quái xấu xa.
Tôi đã thử giao tiếp với riêng rẽ từng sinh vật của loài dễ chịu đã nói, nhưng óc thông minh của chúng rất cổ sơ, còn thua cả loài vật, nên tôi không thành công mấy. Chúng uốn môi giống như ta nói, cho cảm tưởng như hét lớn vang dội, nhưng tôi không bắt được âm thanh nào phát ra từ cái miệng mở rộng đó. Đây là chuyện rất thường ở những tinh linh thấp, khi chúng bắt chước người mà không hiểu chút gì về ý nghĩa và mục đích của hành động.
Một chú mà tôi sẽ tả bên dưới, hãnh diện về những cây chú ở và làm việc, và ráng nói lên điều đó; chú tỏ ra vui thú khi được bọn tôi để ý tới, và cố hết sức mình để trò chuyện, nhưng không đi xa được do bản chất của mình.
Trong mọi dịp khi tôi tìm cách hỏi chuyện, hay khi tinh linh tới gần, chúng không hề thực sự bước vào hào quang của chúng tôi, mà luôn luôn đứng xa xa ở ngoài tầm phát của hào quang. Nếu chúng lại gần hơn, hay nếu ta chăm chú nhìn kỹ, chúng bị mất thăng bằng, hóa rối trí và bất lực, rồi biến mất hoặc để rút ra xa một khoảng cách an toàn hay lên cảnh giới cao. Cố nhiên điều này chỉ đúng cho mannikin nhỏ bé, mà không áp dụng cho gnome rất vững hay brownie chững chạc, hay cho loài tiên nữ. Vài loại mannikin có cánh nhỏ hình trái soan, bằng chất hơi trong suôt lấp lánh. Cánh không dùng để bay tuy chúng đập và rung theo mỗi cử động của sinh vật.
Quan sát nhiều nơi ở Anh cho tôi kết luận rằng mannikin là tinh linh thông thường nhất của nước này, tuy những vùng khác có mannikin với hình thể biến đổi một chút. Cái kinh nghiệm chung gần như không đổi là trong khi chúng tôi quan sát những tinh linh khác thì mannikin sán lại gần. Chúng đứng hoặc ngồi cách một khoảng chừng 3 - 7 m, thành nhóm hay thành cặp, dán mắt vào chúng tôi với vẻ tò mò không che đậy. Một thí dụ như vậy thấy trong vườn hoa ở Kensington.
Khi chúng nói chuyện với nhau, tôi thấy giống như tiếng ríu rít của chim sẻ, và thấy rõ là đặc tính mỗi người mà mannikin quan sát là đề tài cho sinh vật thảo luận sôi nổi. Tinh linh không hề sợ người, không thân thiện mà cũng không thù nghịch, lại gần chúng ta hoàn toàn vì tò mò.

Mannikin Cây
Trong rừng gần Kendal. December, 1922

Một số mannikin giống brownie có liên hệ với cây đang quanh quẩn trên mặt đất, giữa lá rơi trên đất và cỏ. Gương mặt giống như của ông lão, da sần sùi, râu nhọn, lông mày xám. Chúng có nón nhọn thường thấy nhưng dịp này chóp thả ra trước một chút. Mặt mỏng, đường nét sắc cạnh khác với brownie, cũng như chân ốm và bàn chân nhọn ở đầu, thân hình ốm. Tinh linh mặc áo khoác mầu nâu đỏ, phủ lên hông hững hờ, áo trong ngắn mầu xám, vớ xem như to sợi chạy suốt ra bàn chân nhọn. Tôi nghĩ chúng không mang bốt.
Chú lùn tỏ ra vui sướng lộ trên mặt, luôn luôn tươi cười, thấy cả trong đôi mắt sậm mầu. Tròng đen giống như thủy tinh, hoặc đen tuyền hay nâu đậm, tôi không thấy chút tròng trắng nào. Chúng tới lui chậm chạp và dường như không có mục đích gì, đôi khi có nhóm tụ lại chơi một trò. Tôi thấy có bốn chú như vậy trên đường, nắm tay nhau chạy theo chiều kim đồng hồ chừng hai mươi giây, rồi vẫn nắm tay chúng bay lên không trôi xa vào khu rừng. Vài kẻ trong bầy thấy lớn tuổi, ít hoạt động hơn những kẻ khác.
Tôi thấy một sinh vật rất già ngồi ở gốc cây trần bì, duỗi chân ốm ra trước, coi ông thiệt mệt. Áo của ông có cổ rộng lượn hình vỏ sò, có thắt lưng như da mầu nâu bó chặt ở ngang hông. Trong lúc tôi ngắm thì tinh linh biến vào bên trong cây và tôi thấy được diễn trình tan ra của thể, nó còn lơ lửng chừng một phần giây đồng hồ sau khi ông đã rút ra. Ông không khiến nó biến đi trong lúc còn khoác lấy hình, ông chỉ rút lui đi ra phía đầu. Đường nét của hình vẫn còn in lên người trong lúc ông thoát ra, vì tôi thấy rõ hình đôi chân dài theo ông đi vào cây. Quan sát kỹ hơn cho thấy hình không biến mất hoàn toàn, vẻ ngoài giữ nguyên, còn mầu sắc và cơ cấu tan rã, thấy nó giống như ma mannikin, cái thể có đường nét in rõ mầu xám và vẫn ở tư thế ngồi lúc ông bỏ đi. Trong lúc quan sát cái hình như vậy tôi mất liên lạc với phần tâm thức, nó rút vào giữa thân cây, thấy như lan ra thấu nhập vào sức sống trong tế bào cây.
Mười phút sau.
Tinh linh khi nẫy biến vào trong cây giờ ra trở lại, hoàn toàn tươi tỉnh, khỏe khoắn lắm. Đang tả một chuyện khác, tôi bỗng chú ý tới hình dạng của ông vì một luồng sáng chói xuất hiện ở gốc cây, mà khi nhìn kỹ thì hóa ra cũng là ông già khi nẫy, nhưng bây giờ lại sức hẳn và tỏ ra muốn chúng tôi biết vậy. Ông nhẩy múa rộn ràng về phía chúng tôi, băng khoảng 6 m từ cây đến bọn tôi, rồi đi ngược trở lại, nghiêng đầu qua một bên và dang chân thanh nhã trong lúc đi. Ông rất hãnh diện về mình. Trọn bầu không khí trong rừng thật quyến rũ, và sinh vật vừa lui vừa mời gọi tôi đi vào thế giới thần tiên. Ông vẫy tay về phía khu rừng, như chủ nhà mời khách bước vào cảnh vườn tuyệt sắc.

Mannikin Cây
October, 1922

Thấy có nhiều chú lùn đang làm việc bên ngoài lá và cành của một cây du lớn. Đôi khi chúng bay xuống đất và trở lại cây, như thể đi lấy vật liệu rồi đem vào chất của cành nhỏ và lá. Sinh vật cao khoảng 10 - 15 cm, thân hình thay đổi lúc co lúc dãn, có dạng y hệt người. Chúng đội nón chóp nhọn và dài, có áo khoác cổ dài, dài tới nỗi giống như áo choàng phủ qua vai, quần có dây đeo. Nét mặt đỏ như vì nắng gió, mắt xếch lộ ánh không giống người.
Một kẻ tìm cách trò chuyện với tôi; chú đưa tay chỉ cái cây với niềm tự hào lắm, y như muốn nói ‘Công việc của chúng tôi đấy’. Tinh linh bước từng bước ngắn, lắc lư khệnh khạng, coi rất ngộ nghĩnh. Chú hét to về phía cây mà không nhằm chuyện gì, và tôi thấy không ai trả lời. Chú múa máy tay chân để nói chuyện, và thấy rõ là muốn bảo tôi rằng tất cả những phần ngoài của cây đều do bọn chú chăm sóc, và nằm trong vòng ảnh hưởng của bầy.
Thỉnh thoảng một kẻ từ cây vụt ra, lơ lửng giữa trời rồi quay vào cây trở lại. Có lẽ chúng thu lấy sinh lực cần thiết trong không để mang cho cây ? Mùa thu với cây lá đổi mầu hình như là thời điểm quan trọng, vì tất cả bọn bận tíu tít. Việc đổi mầu chiếm trọn tâm trí chúng nhưng tôi nhìn không ra phương pháp. Dù chúng tôi đặt câu hỏi và được tinh linh trả lời khi trò chuyện, chú không thể giải thích cơ chế sự việc, bởi rõ ràng là đối với sinh vật, chú nghĩ không có gì phải cắt nghĩa; chú càng không nghĩ đến việc đang làm, vì nếu có tôi đã bắt được tư tưởng của chú.
Phần lớn công chuyện chúng làm bên trên mặt đất xem ra không có mục đích gì, chỉ là bắt chước, chúng lập lại cử chỉ của người mà không hiểu ý nghĩa hành động. Lá và cành là nhà của chúng, sinh vật hướng cả tâm trí cùng năng lực vào nơi ấy, tuy chúng không giới hạn việc làm vào một cây, vì tôi thấy chúng ‘bay’ vào cây du bên cạnh.

Mannikin Đỏ
Đồi Jefferey, Longridge, Lancashire
November, 1922

Có một loại mannikin mà chúng tôi chưa gặp sống ở sườn đồi này. Đó là mầu chính của chúng. Hình dáng cái đầu rất đỗi lạ lùng: ở hai bên thì dẹp sát rạt gần như châu vào nhau ở giữa trán, mũi và cằm; mắt nằm hai bên đầu vì không có mặt trước. Da trắng mát tuy lông mày sậm. Mắt dài và hẹp, tai to, mũi khoằm rất nhọn và mỏng; môi cũng thật mỏng và cong lên ở khóe; cằm nhọn nhô ra. Y phục rất giống quần áo của phái nam thời Elizabeth I, coi giống như độn bông, có vớ với giày mũi nhọn dài, nửa đỏ nửa lục. Cái nón rất kỳ dị có chóp nhọn màu đỏ, đính tua hay cnuông nhỏ vì tôi nghe có tiếng leng keng khắp nơi trong cánh đồng.
Sinh vật cao chừng 10 - 15 cm nhưng có thể làm lớn ra bằng dạng người và có kẻ làm vậy. Việc cao như người này không thật, chúng cho cảm tưởng cao lớn nhưng tôi cảm thấy luôn luôn rằng chúng vẫn chỉ là những chú lùn, giống như khi nhìn một vật qua kính hiển vi mà vẫn nhớ được kích thước thật sự của nó. Nón, quần áo và vớ có mầu đỏ tươi, phần trên có dây buộc mầu trắng. Khu này rất đông, có tới cả ngàn. Chúng có thể bay lên trong không nhưng phần lớn chỉ đi qua lại trên cánh đồng. Tinh linh tỏ vẻ bận rộn tuy tôi không thể nhìn ra chúng đang làm gì. Chú lùn rất nhút nhát và e lệ, khi hốt hoảng thì tụ thành bầy ra xa.
Đầu chúng tròn ở phía sau và thuôn dần ra trước. Sinh vật vui vẻ và chơi nhiều trò như trẻ con chơi, có kẻ nhẩy múa trong mấy vòng, có kẻ chạy thành đám dọc theo cỏ, không khí hân hoan vui vẻ tràn đầy. Chắc chắn tinh linh có ý niệm về hình học vì chúng tạo ra những hình rõ ràng trong lúc chơi, thí dụ tôi thấy một vòng tròn có chữ thập bên trong. Tôi nghĩ chúng tạo ra hình như vậy một cách ý thức, nhằm biểu lộ phần lực chảy người, cho thêm nét sung sướng và sức sống.

Mannikin Lục
Rừng Bowland, Lancashire
April, 1922

Dưới đây là phần mô tả một loài mannikin sống ở vùng dầm lầy trong rừng Bowland. Hình dạng chung giống bé trai nhỏ con, cao chừng 15 - 20 cm, đầu rộng, người tròn, chân ốm và bàn chân nhọn ở đầu; chúng đội nón sát đầu mầu lục sáng có chóp nhọn thả nằm ngang. Tôi không thấy có quần áo gì tuy thân hình phủ vải bó sát người mầu xanh lục và nâu. Nhân vật tôi chọn để quan sát là chú rất nghiêm trang, đứng trong bụi cây gần đấy.
Gương mặt tròn và bầu bĩnh, môi nhỏ, mũi khó thấy, mắt tròn như hai cái đĩa, không có lông mày hay lông mi. Tai nếu có đã bị mũ che khuất, và trong lúc tôi đang nhìn, mũ in thêm những vòng tròn mầu hồng và xanh. Quanh chú có hào quang ether thấy rõ, phát ra bên ngoài khoảng 4 cm, mầu xám xanh, mịn màng và rung động thanh bai hơn của người. Có một luân xa tương ứng với tùng thái dương phát ra hào quang vừa nói. Trên đỉnh đầu có luân xa nhỏ mầu vàng đang linh hoạt. Ta có thể đoán là hình thể được làm sinh động qua tùng thái dương, còn tâm thức qua luân xa ở đầu. Từ cái sau có một lằn mỏng như sợi chỉ vươn lên trong không và đâm ra ngoài tầm mắt của tôi.
Chú nhỏ ngồi xuống, tỏ vẻ kiên nhẫn tốt bụng, và giờ tôi thấy là tai nhỏ, nhọn lại ở đầu; trong lúc đó chú chạy, nhẩy, bay chung quanh xa đây một chút. Tôi không dám nói là chúng trò chuyện với nhau, nhưng cách trao đổi tư tưởng của chúng làm tôi nghĩ là chúng tía lia không ngớt. Tinh linh đầy sức sống và tràn hạnh phúc, hoàn toàn không nghĩ tới gì khác ngoại trừ chính mình và khung cảnh quen thuộc tự nhiên chung quanh.

Mannikin Nhẩy Múa
Trong phòng khách, Preston
September, 1922

Tôi thấy một mannikin đang nhẩy múa tới lui trên thảm, cố giữ theo đúng nhịp với nhạc của chú gồm chỉ hai nốt láy đi láy lại mãi. Tinh linh có nét mặt trẻ thơ nửa nghiêm trang nửa khôi hài, đội nón nhọn với chóp thả ra sau lưng, áo choàng ngắn và vớ bọc bàn chân nhọn ở đầu. Vớ mầu xanh, áo choàng mầu nâu đậm viền lông thú, mũ có gắn chùm tua thòng xuống. Chú lùn đang trong trạng thái bất thường như thể hừng hực vì năng lực dư thừa và dồi dào sinh lực. Nước da như của đứa trẻ khỏe mạnh, hay chơi ngoài trời, mắt to nâu sậm đầy vẻ tò mò; chú đi lắc lư nghiêng người qua lại, tay để lên hông khi không chỉ trỏ.
Chú nhẩy vài bước giống như điệu múa người Scotland nhưng không quay trên đầu ngón chân. Có hai sinh vật khác tương tự cũng thấy trong phòng. Chúng tựa như elf rừng nhưng tai bình thường, và nét mặt không quái dị bằng mà giống người hơn. Cả ba lấy hình dạng phái nam của bé trai chừng tám, chín tuổi. Tinh linh tuột lên xuống bề đứng cửa ra vào, đi trên thành của lưng ghế salon, nhào lộn trên thanh ngang của bàn và ghế. Mầu lục nổi bật trong cả ba tuy có trộn mầu nâu.
Thấy chúng chơi đùa vui vẻ lắm, các chú như đang thi nhau xem ai nhẩy xa nhất trên ghế sofa. Mannikin loại này họp thành nhóm đông hơn nhóm brownie. Chúng có thể bay trong không theo ý mình, lưng mang đôi cánh nhỏ trong suốt gần giống hình trái soan. Điệu bộ chúng trong không coi không thực và đầy tưởng tượng. Cử động rất lẹ làng và gần như không thể tách rời một cá nhân để quan sát, trừ chú được mô tả ở đầu bài này, người chú to hơn những kẻ khác. Tôi cho là tinh linh cao khoảng 15 cm còn các bạn chừng 10 cm.
Vài kẻ tuột dọc theo màn cửa. Một nhóm chú lùn giờ đứng ngay giữa phòng nhìn tôi. Tôi thấy mấy chú khác trên các khung hình treo tường. Sinh vật đang đứng tìm cách nói chuyện bằng cách ra điệu bộ như hét to, nhưng tôi không nghe thấy tiếng nào. Chúng có dáng thanh, áo ngoài cột ngang lưng và buông chùng phủ hông. Đôi cánh không ngừng lay động. Cái mũ nhỏ ôm sát đầu, không thấy có sợi tóc nào. Chúng không có ruột gan, toàn thân chỉ là một khối.

Tinh Linh Cỏ
Trong đồng cỏ cách Preston vài dặm
September, 1921

Tôi thấy trên mặt đất một số sinh vật mầu lục dạng elf nhỏ tí, cao khoảng 3 - 5 cm, có cánh hình lạ lùng đường nét không đều. Mặt mầu da người tròn đầy, toàn thân mặc quần áo bó chặt mầu lục. Chúng đi quanh quẩn trong cỏ, xem ra mê mải chìm đắm vào việc thám hiểm nơi mà đối với chúng như là rừng rậm đầy bí ẩn.
Có vẻ như sự sống của chúng có liên hệ với cỏ, và sự tăng trưởng của cả hai kết nối chặt chẽ với nhau. Chúng di chuyển rất chậm rãi giữa những cọng cỏ, chúng bay được tuy tôi chỉ thấy sinh vật bay từng đoạn ngắn vụng về. Lúc ở trong không chân tinh linh hướng xuống dưới về phía trước, tới chỗ mà chúng muốn đáp xuống, như đứng trên thang. Mà cái bay của chúng thì giống như đu hơn là bay. Rất đông sinh vật hiện diện ở cánh đồng này, khi đi tới lui chúng phát ra tiếng rì rầm rất lạ.
Tất cả chỉ chăm chú nghĩ chung một điều và không bận tâm đến gì khác, tư tưởng ấy lộ ra trong hào quang không mầu của chúng như là một chuỗi bong bóng ánh sáng đều đặn phát ra từ đầu; những hình tư tưởng ấy giống hệt nhau và nối lại bằng một sợi chỉ ánh sáng. Đó là những hình cầu nhỏ tí đường kính chừng 1,5 mm ?. Tiếp xúc gần hơn làm tôi nghĩ mấy chú elf nay trò chuyện với nhau luôn, và chỉ nói tới lui một điều. Hào quang của chúng làm thể sinh lực của cỏ rung động mau hơn mỗi lần elf đi.

Mannikin và Brownie
Tại Whitendale
April, 1922

Trong lúc tôi đang viết thì một ông lão brownie mặt hầm hừ giận dữ từ bụi cây gần đây bước ra, đi xuống đồi về phía các mannikin. Ông giống như mấy brownie đã tả trước đây, với mầu và chi tiết về quần áo có khác đôi chút. Mặt ông hơi thô, dữ dằn, râu xám lởm chởm và đôi tay to lạ thường. Ông lầm bẩm luôn miệng chuyện gì đó trong lúc đi, chắc quyết định vừa có và giờ bắt đầu làm. Khi tinh linh đến gần những chú mannikin đang chơi ở đây, ta thấy rõ sự khác biệt về tuổi tác giữa hai loài. Thân hình brownie thô kệch, nặng nề, đáp ứng không nhiều với thúc giục của tâm thức như với mannikin, loài sau dường như là hình thức tinh linh mới.
Tâm thức của cả hai trụ dưới dạng một luân xa, ở brownie luân xa ấy chìm sâu vào trong đầu khoảng 1,5 cm. Dù cá tính brownie mạnh hơn và tiến hóa xa hơn, luân xa lại không sinh động, không đáp ứng trong lúc quay như đối với mannikin. Khi lớn tuổi brownie tỏ ra rất thủ cựu. Theo cái nhìn của ta, khó mà thấy làm sao brownie tiến lên mức phát triển kế, vì cả hình dạng và tâm thức xem ra đóng khuôn chặt cứng, ngăn việc nẩy nở sang mọi đường khác. Có lẽ chúng cần trợ lực từ một nguồn mạnh mẽ bên ngoài.

CHƯƠNG IV
Thủy Tiên

Thủy tiên thuộc về nước và theo kinh nghiệm của tôi, không thấy ở đâu ngoài sông, suối và thác. Sinh vật mang dạng nữ và luôn luôn mình trần, thường chúng không có cánh và hiếm khi mang vật trang sức. Hình thể cả khi nhỏ hay to bằng người luôn luôn đẹp mê hồn, và mọi cử động đều tuyệt mỹ. Thác nước là chỗ ưa thích của cô nàng và ta gặp thủy tiên chơi đùa ở đấy, thường là cùng chị em bạn, tận hưởng từ lực của thác.
Tôi thấy có những lúc thủy tiên rút khỏi đời sống linh hoạt bên ngoài mà ta dễ dàng quan sát cô, lui vào chỗ nước sâu, mát, tĩnh lặng của ao hồ, hay bên dưới thác, những nơi u tịch của sông, đầm. Cuộc sống dưới mặt nước này rất mạnh và đối nghịch hẳn lại với vẻ sôi nổi lạ lùng và niềm vui mà cô lộ ra giữa cảnh nước rơi, tung tóe lấp lánh nắng.
Ba tiến trình căn bản của thiên nhiên là hấp thu, tiêu hóa và thải bỏ, thấy diễn ra trọn vẹn trong đời sống bên ngoài của thủy tiên, và có thể nói đời sống ấy hoàn toàn gồm việc lập đi lập lại không ngừng ba hoạt động trên.
Đừng giữa đám bụi nước, hay giữa dòng thác ào ào đổ xuống, tinh linh hấp thu chậm chạp từ lực của ánh nắng và thác; khi đạt tới tối đa, cô thả tung năng lực tràn ứ trong người dưới dạng một tia chớp sáng đầu mầu sắc. Vào cái phút tống xuất kỳ diệu ấy, sinh vật cảm một nỗi ngất ngây tột đỉnh, vượt hẳn khả năng tri thức của con người bị cầm tù trong xác thân vật chất. Sự biểu lộ trên nét mặt và đặc biệt đôi mắt lúc đó tuyệt đẹp, kỳ diệu ngoài sức mô tả. Con mắt rực sáng lóng lánh, vẻ mặt tràn ngập nỗi vui say sưa hàm ý một sức sống và năng lực khác thường; trọn con người, cái hình thể tuyệt mỹ cùng hào quang chói lọi lộng lẫy, hợp lại cho ra hình ảnh yêu kiều say đắm. Trạng thái này lập tức được nối tiếp bằng niềm hoan lạc mơ màng, trong đó tâm thức rút khỏi cõi trần và trụ vào phần tình cảm. Hình thể mờ nhạt không rõ nét trong một lúc, cho tới khi đã hấp thu trọn kinh nghiệm, thủy tiên tái hiện và lập lại tiến trình.
Cố nhiên có nhiều loại tinh linh có liên hệ với nước, và một loại khác với thủy tiên được mô tả trong phần dưới đây.

Thủy Tiên
Whitedale
April, 1922

Ngồi trên hòn đá phủ cây cỏ bên cạnh một thác nước, chảy giữa hai viên đá lớn và rơi từ trên cao khoảng 2 m xuống đá đầy rêu bên dưới, tôi gắng tìm hiểu về thủy tiên, chuyện không dễ làm ngay sau khi tâm thức đã chú mục vào tiên nữ trên đất.
Thủy tiên có cử động lẹ làng hơn và tinh tế hơn. Chúng cũng thay đổi hình dạng mau lạ thường. Tôi thấy chúng mang hình người nữ nhỏ bé, mình hoàn toàn trần, cao khoảng 10 - 13 cm; tóc dài chảy ra sau lưng và sinh vật đeo món trang sức giống như một vòng quanh đầu gồm những hoa nhỏ. Thủy tiên chơi đùa bên trong và bên ngoài thác, vụt tới lui trăm hướng và kêu nhau luôn miệng, đôi lúc cao giọng gần như hét. Nghe rất xa vời, tiếng kêu vọng đến tai tôi rất yếu, như tiếng mục đồng hò trong thung lũng miền núi. Đó là một nguyên âm, nhưng tôi không thể nghe ra những nguyên âm đã sinh ra âm đó.
Chúng có thể đi ngược lên thác nghịch lại dòng, hay đứng yên bất động bên trong làn nước, nhưng thường khi chúng chơi đùa và vụt tới lui giữa thác. Khi mặt trời ló ra khỏi đám mây và thác nước tưng bừng ánh nắng trở lại, thấy như chúng vui sướng hơn khi trước; khi ấy thủy tiên gia tăng cử động và tiếng hát. Tôi nghe gần giống như một âm gồm các nguyên âm e, o,  u, i, a, chấm dứt một cách thiết tha, quyến rũ.
Có chừng tám đến mười hai tiên nữ chơi trong thác; một số lớn hơn những thủy tiên khác, kẻ cao nhất khoảng 20 cm. Một tinh linh cao vừa mới nở phồng thân hình lên khoảng 70 cm, rồi bắn vụt ngược lên thác rất mau lẹ. Vài kẻ có hào quang mầu hồng, có kẻ mầu lục nhạt, và khi tôi tiếp xúc gần hơn, tôi thấy đó là những sinh vật đẹp tuyệt trần, mà cùng lúc thấy chúng hết sức xa lạ với người. Chúng đi ra đi vào những tảng đá lớn bên bờ suối không chút trở ngại. Tôi không sao khiến chúng để ý hay ảnh hưởng được chúng việc gì. Một số luồn dưới nước ở chân thác và thỉnh thoảng xuất hiện giữa đám bọt xoáy vòng.
Tràng hoa đã nói ở trước chói sáng, hình như là một phần của hào quang tinh linh.

Thủy Tiên
Thrilmere, cạnh bờ Dab Ghyll.
November, 1921

Có hai loại tinh linh nước khác biệt tại ngọn thác này. Một xem chừng có liên hệ với trọn vùng và tôi thấy loài này trước tiên khi undine vượt lên đầu núi một cách mau lẹ, chỗ dòng suối bắt nguồn. Rõ ràng đó là một loài undine nhưng lớn hơn những nàng đã thấy trước đây, dầu vậy cả hai giống nhau về nhiều điểm. Undine mang vẻ mặt phái nữ trông lấp lánh như bị ướt, cơ thể trần không mang cánh, tay chân đẹp đẽ chói sáng trong làn hào quang trắng, cánh tay dài, xinh, và khi bay cô nàng vẫy chúng dịu dàng. Thủy tiên cao chừng 1, 2 m, nhìn chung undine có mầu trắng bạc, ngang trán quấn những ngôi sao vàng. Cô nàng đi lên ngọn thác bằng một loạt phóng mình nhanh lạ lùng, mất dạng như thể đã chui vào đá rồi sau đó lại vụt hiện ra, lao xuống dưới trở lại. Khi tôi đang theo dõi những cử chỉ nhanh nhẹn của thủy tiên, undine thình lình trở nên chậm chạp, hình thể tan loãng từ từ và tâm thức chìm dần vào lòng đất như để nghỉ ngơi. Tại một bờ đá dốc phủ đầy dương xỉ và cây thạch thảo, nơi cô nàng biến đi, tôi còn cảm nhận và gần như thấy được thủy tiên ẩn sâu dưới lòng đất chừng 1,8 - 3 m.
Cô nàng xuất hiện trở lại, tỏ ra rất vui sướng, thích thú, hân hoan trong ngọn thác; cách thức undine bay lượn quanh thác làm chúng ta nghĩ đến tình cảm dịu hiền của một ai có bổn phận chăm nom. Undine biểu lộ một nỗi quan tâm tự nhiên, nơi cô nàng không hề có sự vô tư lự, bàng quan thường gặp ở những tinh linh khác còn thấp. Tâm trí undine có một ý tưởng về trách nhiệm đối với vài công chuyện và cách thức tiến hóa ở vùng này, vốn liên hệ phần lớn đến nước và cây cỏ. Quanh hòn đá mà undine ngơi nghỉ ở dưới tỏa một vùng từ lực, chắc chắn có được là do sự hiện diện liên tục và đã lâu của cô nơi đây, sự kiện ấy tạo một hào quang mạnh mẽ, rõ rệt cho hòn đá và khiến nó có ảnh hưởng đến xung quanh.
Còn vài undine kém tiến hóa cũng được gặp tại đây, xem ra chỗ này là nơi trú ngụ thường xuyên của chúng. Các nàng cũng đi vào, đi ra hòn đá tự ý và khác xa loài ở trên nhất là về kích thước, chúng cao chừng 30 cm, và dường như phát ra được âm thanh. Niềm vui của undine không bị giới hạn nhiều, cũng như mang ít trách nhiệm hơn undine nói trước. Có chừng 5 hay 6 cô, thân hình mảnh mai, duyên dáng và mềm dẻo vô cùng. Khi chơi vơi giữa dòng thác hay khi lượn quanh tia nước, cử chỉ của chúng thật tuyệt vời. Một dạng đặc biệt của undine là thân thẳng đứng, tay khép cạnh sườn, đầu hơi ngả ra sau, mắt ngước; trong tư thế ầy chúng đi lên đầu thác chậm chạp, giống như một cái bong bóng nổi trong nước từ dưới lên; khi tới ngọn thác, undine tung mình vào khoảng không, tuôn ra năng lực tích lũy mà chúng đã hấp thu, tạo nên khung cảnh đầy mầu sắc và ánh sáng, rạng rỡ niềm vui và sự hân loan túa ra mọi chiều.
Các nàng ca hát bằng một giọng cao, vang đến tai tôi như một loạt nguyên âm, vút lên đầu và cuối cùng là một nốt hầu như không còn nghe được nữa. Lúc này đây mặt trời chiếu trọn thác nước, từ lực do đó có nhiều và undine thu lấy tối đa, chúng đem sinh lực vào người cho đến lúc sự chất chứa lên tới tột mức, khiến thân hình undine như muốn vỡ tung, khi ấy undine cố hết sức cô đọng sinh lực này rồi sau cùng khi trở nên quá mức, sinh lực túa ra theo cách thức vừa kể, tung vào đá, dương xỉ, cỏ cây. Sự việc làm undine tràn trề vui sướng, chúng run rầy khi hấp thu và cô đọng, vào lúc sinh lực tỏa ra, chúng cảm nhận một niềm say đắm lâng lâng, ta có thể nói là gần như undine ngất trí, hình thể cô nàng trở thành nhạt nhòa trong chốc lát, chỉ còn là những chớp sáng rực rỡ, chớp sáng ấy chính là niềm vui sướng nồng nhiệt đã làm tôi chú ý và cố gắng tìm hiểu các nàng.

Thủy Tiên
Lake District, June, 1922

Chúng tôi đang ở tại một nơi nhiều đá chen lẫn với dương xỉ, cảnh trí thật nên thơ; thủy tiên thỉnh thoảng xuất hiện nguyên hình, thân để trần có dạng nữ với một vẻ xinh đẹp lạ lùng. Cô nàng so với các undine trước đây có nhiều điểm khác biệt: cao lớn hơn, trí thông minh phát triển nhiều hơn và mang cánh. Dường như thủy tiên chăm sóc đá, dương xỉ, rong rêu nơi đây và ngay cả thác nước này. Tôi gặp cô nàng lần đầu khi undine vút ra khỏi hòn đá, động tác thật yêu kiều; undine đứng lơ lửng trong không một lúc rồi mất dạng. Cô nàng lập lại hành động này nhiều lần, nhưng cho dù biến đi hay vẫn giữ nguyên thân hình, sự hiện diện của thủy tiên luôn luôn được cảm nhận rõ rệt.
Thân hình undine rất đẹp, mầu hồng nhạt, gợi ý một pho tượng cẩm thạch sống động; mái tóc vàng, óng ả, mày rộng, khuôn mặt hết sức diễm lệ; đôi mắt to long lanh biểu lộ một vẻ xa lạ nhưng cái nhìn của chúng lại dịu dàng. Đôi cánh hình như mọc từ vai cũng mầu hồng, so với thân hình có vẻ nhỏ nên chắc chắn không dùng để bay. Điều đáng chú ý hơn cả thân hình undine là phần hào quang giống mống trời bao quanh cô nàng, y như vầng sáng quanh mặt trăng; hào quang ấy hình gần tròn, gồm những vòng đồng tâm xếp rất đều, đầy mầu sắc rực rỡ mà rất thanh. Có vô số mầu nhưng vì cô nàng di động quá nhanh nên tôi không nhìn kỹ để mô tả được, hầu như có tất cả những mầu của quang phổ, sắc nhạt trong đó mầu hồng, xanh lục và xanh dương nhiều hơn cả, một số vòng được viền bắng sắc vàng ửng, và từ bià hào quang túa ra những tia sáng trắng, dịu, làm tăng thêm vẻ đáng yêu. Phía trên đỉnh đầu, một dòng lực mạnh mẽ tuôn vào hào quang theo hình rẽ quạt, dường như lực này phát xuất từ một luân xa sáng chói mầu vàng giữa đầu, dưới đôi mắt một chút và ở giữa chúng.
Tiếp xúc với thủy tiên là một kinh nghiệm quý giá, và tôi mong tìm ra đủ chữ để diễn tả không những vẻ mỹ miều của cô nàng, mà luôn cả cảm giác siêu thoát cùng sự linh hoạt của thủy tiên đã mang lại chốn này, trọn vùng rung động theo nhịp sống của undine.
Một lát sau, thủy tiên  xuất hiện trở lại, lần này cô mang một thắt lưng có nạm ngọc, hai đầu cột lại và thả lỏng theo sườn bên trái. Các viên ngọc không giống bất cứ loại nào chúng ta đã gặp, chúng to và lấp lánh rực rỡ, còn thắt lưng trông như một chuỗi bằng vàng khắc thật tinh xảo.

Tinh Linh tại Hồ
Wythburn, June, 1922

Rải rác nhiều nơi trên mặt hồ Thrilmere trải dài dưới kia, chúng tôi bắt gặp nhiều tinh linh lướt mau lẹ cách mặt nước chừng 1 - 1,5 m, đôi lúc cao hơn. Dù thường bay lượn trên hồ, đôi khi chúng cũng bay sâu vào đồng ruộng. Trông tinh linh như một loài chim lớn mầu trắng, vận tốc lướt thật mau; với khoảng cách hiện thời tôi không trông rõ dạng chúng. Tinh linh khoác nhiều dạng khác nhau và thay đổi luôn chỉ trong nháy mắt, đôi khi mang cánh, đôi khi gương mặt thật giống người để rồi tiếp theo là dạng lạ lùng. Sự mau lẹ khi chuyển động cùng việc thay đổi hình dạng như chớp khiến tôi khó quan sát được tinh linh kỹ càng. Có lẽ điều xác thật hơn cả là trông tinh linh như một vầng sáng đẹp đẽ, không có cơ thể bên trong, nhưng cùng lúc người ta có thể thấy vài nét rõ rệt trong vầng sáng, ấy là những đường gồm nhiều điểm xoáy theo đó sinh lực tuôn đi.
Cử động của chúng không giống như chim bói cá khi lượn trên mặt nước, chúng không đi sâu vào hồ mà có lúc dừng bên hồ rồi bắn mình lên không tựa một tia chớp rực rỡ; trắng là mầu chính của tinh linh và đậm dần sang mầu xám của chim bồ câu.
Chúng không lộ đặc tính cá nhân nào mà cho thấy có tâm thức nhóm; khi tôi đang quan sát, nhiều tinh linh tụ lại với nhau rồi hòa lẫn thành một dạng duy nhất. Gọi là dạng cũng không đúng hẳn, đó chỉ là một màng mỏng trông như cái bao to trong ấy cả bọn được bao kín như chim trong lồng. Hiện giờ, túi này ở trên mặt nước, trôi nổi giống quả bóng có nhiều điểm chói sáng mầu vàng lững lờ như được gắn không đều. Lúc chui vào túi, tinh linh xem ra mất đi hình dạng, ta chỉ cảm nhận được sự di chuyển trong ấy; kế đó, cả bọn tung ra khỏi túi như chim xổ lồng, tiếp tục bay nhẩy đó đây trên mặt hồ mau lẹ như phút vừa qua.

Tinh Linh Biển
Bờ S. W.- January,1923

Xa ngoài khơi tôi bắt gặp những sinh vật to lớn mầu xanh trong thể ether, trông tựa như cá mà không giống bất cứ loại cá nào. Thân hình trong suốt như kính, chiếu sắc xanh kỳ lạ; chúng đứng thẳng, dường như có đầu và thân hình riêng biệt; tuy vậy tôi không tìm ra nét gì nơi sinh vật gọi là giống người: từ vai trở xuống không thấy có tay chân, thân hình tận cùng ở một điểm rồi tan loãng ra thành hào quang với chất liệu thanh nhẹ hơn; tinh linh có vẻ nổi dần từ dưới biển sâu lên, đôi khi vượt hẳn mặt nước, đôi khi chỉ nổi một phần. Vài sinh vật khác có dạng thanh thoát hơn trôi dạt theo chiều gió trên mặt biển, trong bọn có các thủy tiên cỡi sóng, hân hoan với sinh lực tỏa ra từ đợt thủy triều dâng.
Ngược hẳn lại với chúng, những tinh linh khổng lồ ngụ sâu dưới biển cử động thật chậm chạp, di chuyển nặng nề, chúng nhìn một cách lơ đãng khung cảnh chung quanh, tỏ ra một trí thông minh ít phát triển và còn bị giới hạn nhiều. Đặc tính mãnh liệt, ào ạt trong cách tinh linh biển chơi đùa và trong niềm vui của chúng có vẻ như lấy từ sức mạnh nhiên thiên của biển cả. Tinh linh tỏ ra linh hoạt, hăng hái nhiều hơn so với đồng loại trên đất liền, những thủy tiên nhỏ hơn hoàn toàn chú tâm vào hoạt động của mình mà thôi.
Xa hơn nữa tôi thấy một nhóm các đại thiên thần của biển, quanh đầu mỗi vị là một vòng hào quang; trông các ngài uy nghi, cao lớn, quả là những vị đường bệ cai quản biển khơi, làm chúng ta hình dung được phần nào sắc diện của Hải Vương (Neptune).
Nơi vùng biển không sâu lắm là các thủy thần mang dạng thiếu nữ với vẻ đẹp rực rỡ, các nàng không mang cánh như tiên nữ thuộc đất liền, sống thành đoàn ngay trên và dưới mặt biển, vốn là nơi cư ngụ của bầy. Chúng tỏ ra vui thích khi lướt trên ngọn sóng hay chìm sâu dưới biển và tôi nghe cả bọn gọi nhau vang dội, kêu to vui sướng như thể sinh lực, dùng để tạo hình chúng, khơi dậy nơi tinh linh một nỗi hoan lạc không tưởng được. Loài này cùng với những tinh linh nhỏ hơn đều hết sức linh hoạt, cử động không ngừng hơn hẳn sinh vật trên đất liền.
Xuống thấp hơn nữa, thật sâu dưới mặt nước, tôi gặp một loài to lớn, thân dài hình dây giống như thảo mộc, lộ thật ít tri thức, đong đưa người theo dòng nước. Nếu phác họa lại sự phát triển hình thể của tinh linh, tôi có thể đi từ sinh vật mà thân hình còn mờ nhạt, tâm thức hoàn toàn hướng vào trong, dần lên tới thủy thần và thủy tiên vui đùa trong các lượn sóng dập dồn, mang thân hình được cấu tạo tuyệt mỹ. Hai loại sau có cơ thể rõ rệt và tri thức hoàn toàn, chúng thoáng hiện thoáng biến đi theo tốc độ ánh sáng, cho ta cảm tưởng ấy là những vệt mầu hoặc một hình dạng hư ảo, tan loãng để rồi xuất hiện trở lại đâu đây.
Nét khác biệt chính giữa các tinh linh tôi thấy trước đây và sinh vật nơi biển là hình thái của chúng. Với loạt sau đa số mang dạng người tuy một ít giống cá; tất cả không chia phái tính nhưng phần lớn hình dạng mang đường nét của phái nữ; một đặc điểm nổi bật nữa là sự mau lẹ khi chúng tạo hình rồi mất đi hình ấy, tinh linh thay đổi luôn luôn thành những chớp sáng chói lọi không thành dạng rồi trở lại sang hình người, vốn là dạng tự nhiên của chúng.
Dường như qui tắc tổng quát nơi loài này là sinh vật lớn ngụ xa ngoài bể khơi, loài nhỏ hơn chơi đùa ở trong, ngoài các lượn sóng dập đồn, còn sinh vật trung bình có mức tiến hóa thấp hơn người một chút thì ở cách bờ chừng 150 - 200 m
Một trong các sinh vật lớn vừa đến gần chúng tôi, cách chừng vài thước, tôi thấy một số vụt đến gần bờ rồi trở ra biển. Tinh linh vừa nói mầu trắng, thân hình lấp lánh như bị ướt và hoàn toàn trần; đường nét của cơ thể không rõ rệt nên sự khác biệt giữa thể xác và phần hào quang bao quanh thường không còn. Dường như phần lớn tinh linh dùng trọn thì giờ của chúng để bay nhẩy mau lẹ trên mặt biển, khi thì lặn nguyên người hay nửa người xuống nước, khi thì bắn tung lên, mau lẹ như một tia chớp, thẳng trong không. Chúng tắm mình trong làn từ lực mạnh mẽ của biển cả, biểu lộ nỗi vui sướng tột cùng. Tinh linh mang vào người một phần từ lực này, rồi sau một lúc nghỉ ngơi để hấp thu, chúng tuôn trở ra năng lực ấy. Cảnh sống của chúng vô cùng linh hoạt, vượt thật xa khả năng của loài người phải mang lấy thân xác nặng nề; lòng hăng hái ấy trội hơn cả những khi ta hớn hở thật nhiều. Các quan sát này cho thấy tinh linh luân phiên hấp thu và tuôn ra năng lực, dưới dạng này hay dưới dạng kia.
Sau cùng tôi bắt gặp một thủy tiên trong tích tắc đã giữ yên người bất động. Đây thật là dịp hiếm, tinh linh đầy sinh lực, tỏa ra một khoảng xa chừng 1.8 m đường kính, vượt hẳn giới hạn bình thường do đó khiến thủy tiên có hình ảnh một người chói lọi, rực rỡ, mắt long lanh sáng, đứng thẳng, tay dang với vầng sáng trắng lấp lánh bao quanh. Thủy tiên tỏ vẻ vô cùng sung sướng, rất đỗi hài lòng với cảm giác sinh lực được chứa tràn đầy; khi ấy lực tuôn ra rồi cảm giác tan biến đi, tinh linh lập lại hoạt động này.
Các loài thủy tiên nhỏ bé có nhiều nét giống với tiên nữ trên đất liền, chỉ trừ một điều là chúng không có cánh và thân để trần. Chúng cũng có nhiều kích thước hơn so với đồng loại trên đất, thí dụ sinh vật đùa giỡn trong các lượn sóng có chiều cao trong khoảng từ 20 - 60 cm
Tiếp xúc với chúng cho tôi một cảm giác thật lạ lùng. Tiên nữ của đất liền thì rất đỗi vui vẻ và thân thiện, những rung động của chúng hòa điệu với con người, còn thủy tiên thì ngược hẳn lại. Theo tôi thấy, không dễ mà thấu nhập được tâm thức của chúng, cách rung động cũng khó hòa với  nhịp của tôi. Chúng cũng chú tâm về mình nhiều hơn, ít trò chuyện với nhau; tôi có nghe nhiều tiếng gọi nhưng không có lời đáp nào; thật vậy, việc hoạt động luôn luôn và thật nhiều khiến chúng không cảm nhận những chuyện đến từ ngoài vào. Đây chỉ là nhận xét tổng quát vì vài chứng cớ cho thấy chúng có tâm thức nhóm, giữa bọn có sự liên lạc với nhau. Các loài nhỏ hơn không bắn lên cao như các sinh vật lớn, nhưng chúng có những nét bay tuyệt vời, ít khi cao hơn 2 - 3 m, thường chỉ là là trên mặt nước hay lượn quanh đầu ngọn sóng; những tinh linh ở xa ngoài khơi thì phóng thật cao, vượt  hẳn tầm nhìn của tôi.

Biển Vào Lúc Nước Lên
April, 1922

Như trong những dịp quan sát trước, tôi thấy phần không gian từ bờ đến xa tít ngoài khơi là nơi tụ tập vô số những tinh linh biển với đủ mọi cấp bậc tiến hóa khác nhau, từ những giống nhỏ mang hình dạng người đang vui đùa trong các lượn sóng dập dồn, cho đến những giống lớn hơn (một vài loài trong bọn mang hình giống cá và giống cả chim nữa, mặc dù chúng có hình thể người từ vai trở lên), kế đó là các thiên thần biển với vẻ bình thản dịu vợi ở mãi xa ngoài khơi.
Vào lúc từ lực của thủy triều tăng, bầy tinh linh biển trong thể ether tỏ ra tươi vui tột độ, đùa giỡn linh hoạt cùng lúc với nước lên cao dần. Sau đó khi thủy triều xuống, cảnh vật yên tĩnh trở lại, tinh linh trở về cõi tình cảm mang theo nỗi vui thích chúng vừa trải qua, nóng nẩy, chờ đợi lần thủy triều tới để có thể lập lại lần nữa những kinh nghiệm sống động này. Dường như cảnh sống của tinh linh chỉ là để trải qua những kinh nghiệm ấy; khi một ai quan sát chúng và cố hòa hợp tâm thức của họ với tinh linh, rất có thể họ sẽ cảm được nỗi ngất ngay say đắm của bầy.
Nỗi vui thích càng lúc càng lên cao và cứ thế lập đi lập lại mãi. Từ một nơi xa giữa biển, tinh linh lướt mau lẹ không tưởng tượng được, đi vào vùng từ lực của thủy triều, lực ấy hướng lên cao và ra phía trước trong suốt thời kỳ nước dâng, cường độ tăng mãi cho đến lúc nước lên đến mức cao nhất. Khi bước vào vùng từ lực, tinh linh mang dạng người, mắt chớp sáng, hướng lần về phía trước một cách chậm chạp, cùng lúc chúng đem từ lực vào người và công việc ấy khiến tinh linh sung sướng tột cùng. Từ lực được hấp thu mãi rồi khi thể ether không thể chứa thêm được nữa, tinh linh bắt đầu nghỉ ngơi, gương mặt rạng rỡ niềm vui, đầy sức sống, cả thân hình được bao quanh bằng một vầng sáng tựa như sự phát quang của điện. Khi sự hấp thu tới mức cao nhất, thể ether của tinh linh tan loãng, hình dạng mờ nhạt và rồi chúng trở lại cõi tình cảm.
Trong suốt khoảng thời gian này, thể tình cảm nở to gấp đôi (lúc bình thường thể tình cảm bằng chừng hai lần thể xác) rất mau lẹ, nhờ vào những cảm nhận vừa kể, kết quả của mấy cảm xúc ấy kéo dài khá lâu. Phần năng lực hấp thu được khi được tuôn ra mang lấy nét rung động của tinh linh biển, và do đó được chuyên biệt hóa theo cùng cách thức như prana được người hấp thu, và mang lấy tính chất của người.
Một loài tinh linh biển khác giống như chim hải âu khổng lồ với đầu người, đôi cánh dài mầu trắng là từ hào quang mà ra; cánh mọc không giống như cánh chim mà như hai căm xe cực to uốn vòng. Các sinh vật này có vẻ như chuyển dịch không bằng cách bay thông thường, mà quay mình nhiều bận, xoay tít trên không mau lẹ, khoảng 15 - 18 m trên đầu sóng. Thấy chúng vụt tới lui không ngừng, chơi giỡn nhưng không quá chú tâm hay có tính toán như các tinh linh đã mô tả trước đây. Hình dạng trung bình của chúng vào khoảng gấp đôi chim hải âu to, sinh vật giống như những bánh xe trắng bay và xoay tít mau lẹ trong không.
Trong lúc tôi đang ngồi trên cầu tàu cách mặt nước chừng 20 - 25 m, tả những điều này, vài tinh linh biển mầu trắng có dạng người quan sát sát chúng tôi; một số vụt tới lui thình lình, ngưng lại một giây nhìn ngắm với vẻ kinh ngạc về hướng chúng tôi, như lạ lùng thấy có người tìm cách thâm nhập vào cõi của chúng. Gương mặt tinh linh đẹp kỳ lạ, trông như mặt người; ngay cả đôi mắt cũng không có vẻ phi nhân, cái là đặc tính của mọi thiên thần. Khó mà nói sự khác biệt giữa ta với thiên thần là gì. Nơi con người tình cảm nồng nàn dường như làm ta cảm thấy nóng, hay ít ra cũng ấm; với tinh linh biển tôi cảm sức lạnh buốt, như làn rung động từ một thế giới khác mà rất sống động về tình cảm.
Chúng làm tôi nhớ đến mặt trăng, vì ẩn sâu bên trong việc di chuyển lẹ làng và cảm xúc nồng nàn, có một nỗi lặng lẽ lạnh lùng, như thể không có trái tim đập trong sinh vật tượng trưng cho một trong các lực của thiên nhiên. Nỗi ngất ngây càng cao thì hình như cảm xúc càng lạnh giá như băng, tựa như chúng là hiện thân của lực điện từ. Trung tâm của ý thức thấy nằm ở đầu, lộ ra như ngọn lửa cháy sáng rực. Tinh linh không có thể sinh lực thường xuyên, mà có thể tạm thời tạo nên một thể để tiếp xúc với cõi trần.

CHƯƠNG V
Tiên Nữ

Trong tất cả dân cư của thế giới thần tiên mà tôi đã thấy, tiên nữ tả trong chương này cho tôi niềm vui sướng nhất khi tiếp xúc với chúng, và cũng là loài mà tôi cảm thấy gần gũi nhất.

Tiên Nữ Vàng Óng
Trong vườn
October 17, 1921

Mầu sắc của tiên nữ đẹp hẳn rồi, đầy tiếng cười và nỗi vui, rất cởi mở không tỏ dấu sợ sệt chút nào, bao quanh là hào quang vàng rực rỡ bên trong có thể thấy hình dạng đôi cánh. Thái độ và vẻ mặt của cô cũng hàm ý đùa cợt, như kẻ thưởng thức câu nói trêu chọc về người trần đang quan sát cô.
Đột nhiên cô thay đổi điệu bộ, hóa nghiêm nghị hơn. Dang rộng hai tay hết mức, cô tập trung tư tưởng làm giảm kích thước hào quang và hướng năng lực của nó vào người mình. Giữ được trạng thái này trong khoảng mười lăm giây, cô tuôn ra năng lực đã tụ lại, tung theo mọi hướng thành từng giải lực mầu vàng óng, thấy như ảnh hưởng tới mỗi cành hoa và cái hoa trong tầm. (Cô đang đứng giữa một bụi hoa cúc.) Làm như vậy tiên nữ củng cố thêm sự rung động đã có sẵn ở đó, chắc cái sau là kết quả của hoạt động tương tự ngày trước của cô. Một kết quả khác của việc là khiến thể tình cảm của khóm hoa bừng sáng thêm hơn, xuống đến tận rễ.

Tiên Nữ ở Manx
Trên sườn phía tây của Snaefell. August, 1922

Chúng tôi gặp một loài tinh linh nhỏ dễ thương trong lúc đang leo núi ở Sulby Glen, sinh vật khác hẳn tinh linh của Anh về nhiều phương diện. Chúng có hình dạng của người nam và nữ thời rất xưa, cao chừng 10 - 15 cm. Không giống như tinh linh trong đất liền, chúng đi chẫm rãi, từ tốn nhẹ nhàng trên sườn đồi. Đôi mắt êm nhẹ, mơ màng, dài và hẹp. Mặt lúc nào cũng cười, đường nét rõ ràng tuy cằm lẹm. Có cả nam và nữ, phái nữ mặc áo dài nhiều mầu sáng; phái nam có y phục láng trông như lụa, mầu hay thấy là xanh dương rực rỡ. Sinh vật làm ta nhớ đến các hiệp sĩ và phu nhân hồi xưa, nhưng tôi nghĩ hình dạng chúng dựa theo kiểu mẫu còn cổ xưa hơn thế. Có âm như tiếng sáo vang ra từ nhiều nơi cùng một lúc, thành như tiếng chim hót ríu rít. Tinh linh nhẩy múa và chơi đùa trên đồi, dân cư đông vô số kể.
Thỉnh thoảng xuất hiện giữa bầy một tinh linh giống như gnome, nhưng có chân là đôi chân sau của thú vật. Các chú nhỏ này không có cánh, thiếu sức sống linh hoạt vốn là đặc tính của mọi loài tiên nữ chúng tôi gặp. Tâm thức của chúng biểu lộ rất ít xuyên qua thân xác, một số gần giống như bị mộng du, đi trong giấc ngủ. Chúng hết sức nhẹ nhàng và rất mực lễ độ trong cách đối xử với nhau, biểu lộ sự thương yêu nhiều hơn là niềm vui. Cảnh sống của chúng thật êm đềm, yên lặng, như trong mơ.
Trung tâm sinh lực hình như ở đằng sau lưng, thể tình cảm nối liền với thể xác ở điểm ấy và trôi nổi ngay đằng sau và ở trên đó. Thể không có hình, mầu sắc chính là bạc và hồng, chiếu sáng rực rỡ. Có lẽ loài này quá xưa và đang tàn lụi dần.

Tiên Nữ
Kendal, December, 1922

Một loài tiên nữ yêu kiều ngụ ở đây. Chúng có điệu bộ hết sức êm nhẹ, dịu dàng tôi chưa từng thấy, ngoại trừ trên gương mặt tiên nữ vừa tả ở trên. Tinh linh tuyệt đẹp, di động với phong thái vô cùng thanh nhẹ, yên lặng, nhã nhặn và xinh xắn tột bực. Một cô ngắm nhìn chúng tôi không tỏ ra sợ hãi. Cô đang lấy tay giữ y phục mỏng mầu sáng của mình, qua đó thấy được thân hình mầu trắng và hồng bên trong, tay phải cô mang một vật mà ngay lúc này tôi chưa rõ là vật gì; tay chân để trần, tóc dài buông thả, nhiều điểm sáng tí xíu quấn quanh đầu như vòng hoa, dáng người tiên nữ yêu kiều tới mức nếu không vì vẻ mặt chẳng có chút ngượng ngùng như tôi thấy, và vẻ chân thật hoàn toàn trong đôi mắt, hẳn tôi đã nghĩ là tiên nữ đóng trò. Chung quanh tôi đầy những cô khác cũng kiều diễm y vậy, chỉ khác nhau chút ít. Một cô quay lưng về phía tôi có tóc đen dài xinh đẹp, buông lơi xuống quá thắt lưng; cánh tay trắng đẹp đẽ dang ra phía trước, hơi nghiêng một chút về phía bên trong lúc tinh linh chậm rãi đi trong rừng. Chỗ này quả là vùng đất thần tiên và nếu thời gian cho phép, ta có thể dành nhiều thì giờ mô tả đời sống nơi đây.

Tiên Nữ
Preston, 1922

Một cô tiên nữ xinh đẹp, giống hệt thiên thần một cây nhỏ, ngụ ở bụi cây mọc gần khóm dâu rừng lá đỏ và hàng dây leo rậm rạp. Lẽ tự nhiên thiên thần của cây lớn có trách nhiệm tương tự sẽ được gặp ở những lùm cây lớn hơn. Đây là một tinh linh đặc biệt mang nét yêu kiều. Cô nàng cao chừng 0,9 - 1,2 m, khoác sơ sài cái áo mỏng thướt tha, trong suốt, nhìn thẳng vào chúng tôi với nụ cười sáng rỡ và hết sức thân thiện. Cái đáng nói là cô thật sống động, cho ta có cảm tưởng như đấy là nguồn năng lực hết sức linh hoạt nhưng lại được làm chủ hoàn toàn. Hào quang của tinh linh rất tươi sáng, trông như một vầng mây êm nhẹ mà rực rỡ, từ đó phát ra những tia chớp chói lọi. Mầu sắc mang nét thanh tú vượt xa những mầu chúng ta có, đi từ mầu sáng và nhẹ như hồng nhạt, xanh lục mờ đến tím nhạt, xanh dương qua đó các lóe sáng liên tục phóng ra. Cô nàng đang trong trạng thái ngây ngất đắm say.
Để thí nghiệm, tôi tự chìm đắm vào sức sống mạnh mẽ của cô và trong một lúc không để ý gì tới xác thân, tuy luôn luôn tỉnh thức đôi phần đủ cho việc trở về thân xác khi muốn. Tôi cảm nhận một nỗi vui sướng rạng rỡ, hân hoan dường như vốn là trạng thái thường xuyên của dân cư trong thế giới thần tiên. Việc tiếp xúc quá đỗi thân cận với thế giới này sẽ tạo nên điều nguy hại, cần phải cố gắng thật sự để rời khỏi trạng thái trên, và khoác trở lại thân xác nặng nề của loài người.

26 - 9, 1922

Trong một khoảng rừng thưa cách nhà vài dặm với những cây cổ thụ xinh đẹp đã bắt đầu khoác áo thu, một dòng suối nhỏ êm đềm chảy qua và vạn vật tắm mình trong nắng thu. Rất đông tiên nữ thấy trên mặt cánh đồng này, cả brownie, elf và một loài tinh linh cỏ nửa giống brownie, nửa giống elf mà nhỏ hơn cả hai và xem ra không tiến hóa bằng. Tiên nữ lướt trong không với những đoạn ngắn, có cử chỉ hết sức thanh nhã trong khi bay. Chúng biểu lộ tột mức niềm vui sống và tâm hồn thơ thới hân hoan; một số lượn riêng rẽ từ nơi này sang nơi khác, ngừng ở mỗi nơi một chốc. Có vẻ như chúng mang vật gì đó cho hoa hay cỏ ở những nơi ghé lại như vậy, ít nhất chúng đưa tay chạm vào nơi dừng cánh tựa như chuyển qua một cái gì rồi vút đi mau lẹ.
Hình dạng tiên nữ hóa dễ thấy, rõ rệt hơn lúc chúng hạ cánh hay bay trong không; một khi đáp xuống rồi chúng tôi mất dấu của bọn. Tinh linh mặc áo trắng hay hồng nhạt, thướt tha, làm bằng một chất liệu rất đỗi thanh nhẹ và chói sáng. Áo thắt ngang lưng, lấp lánh những mầu của ngọc trai; tay chân để trần, đôi cánh hình bầu dục, nhỏ và dài.

Tiên Nữ Nhẩy Múa
Cottingly, August, 1921

Có một vùng sáng rực rỡ trên cánh đồng, cách chúng tôi chừng hơn 50 m, do sự xuất hiện của bầy tiên nữ. Cả bọn chịu sự điều khiển của một cô tiên nữ trưởng bầy. Cô nàng tỏ ra đầy quyền hạn, ban mệnh lệnh, chỉ huy và cả bầy tuân theo không một lời chất vấn nào. Chúng trải rộng thành vòng tròn lớn bao quanh cô, và khi làm vậy có một làn ánh sáng mờ chiếu trên bãi cỏ. Từ hai phút trước, lúc chúng hạ thấp trên ngọn cây xuống cánh đồng, vòng tròn thành hình chừng gần 4 m đường kính, phát ra tia sáng thật tuyệt vời. Mỗi tinh linh trong bọn đều nối liền với cô tiên trưởng, kẻ đứng ở tâm vòng tròn hơi lơ lửng trên cả bọn, bằng một dải ánh sáng. Các dải này mang nhiều sắc khác nhau giữa mầu vàng và mầu cam, tụ lại trong hào quang cô tiên trưởng; dọc theo các luồng này có sự di chuyển liên tục đến và đi. Cái hình từ đây mà ra thì giống như đĩa trái cây lật úp với cô tiên đứng giữa là trôn đĩa, và những đường sáng túa ra theo hình vòng cung thanh bai là thành đĩa.
Hoạt động liên tục của chúng cho ra một hình càng lúc càng phức tạp mà tiếc thay, thời giờ eo hẹp khiến chúng tôi phải về.

Lake District
August, 1922

Một nhóm tiên nữ đang chơi giỡn và nhẩy nhót trên khoảng đất trống nhỏ phía bên kia bờ suối. Chúng có dạng nữ, mầu chính của y phục là xanh nhạt; đôi cánh gần như là hình trái soan đập không ngừng trong lúc chúng nhẩy múa thành vòng, nắm tay nhau. Vài cô đeo thắt lưng hơi trễ xuống, có treo nhạc cụ giống như cái sừng. Tất cả đều choàng khăn nhằm che phủ thân hình kỹ hơn so với các tiên nữ thường. Chúng cao khoảng 15 cm. Tóc ai cũng nâu, từ nhạt sang rất đậm.
Thân hình có mầu hồng rất nhạt, và bên ngoài mỗi cô trong bọn là hào quang xanh nhạt và đôi cánh cũng xanh nhạt. Chúng nhẩy một điệu vũ tương tự như vũ khúc miền quê, và tôi nghĩ tư tưởng chúng đã tạo hình hoa giống như hoa cúc tí hon lúc hiện lúc mất, có khi đến từng hoa một, khi là chuỗi hay cả vòng.
Tiên nữ tuôn vào bầu không khí chung quanh một lượng lớn năng lực được chuyên biệt hóa dưới dạng lóe sáng mầu bạc, và kết quả của hiện tượng điện nhỏ bé ấy thật tuyệt mỹ, khi chẩy qua hào quang cùng phần không khí mờ ảo kỳ lạ như sương bao trùm cả bọn; nó vươn cao khoảng 20 - 25 cm bên trên đầu các cô, và lên tới điểm cao nhất ở giữa nhóm. Ảnh hưởng của nó đối với tiên nữ làm các cô có cảm giác được ẩn mình hoàn toàn; thực vậy, tinh linh loài khác trong vùng không bước vào trong bầu không khí quyến rũ này.
Bây giờ chúng thay đổi hình của nhóm và tạo nên cái khá phức tạp, thành những chuỗi đi xuyên qua tâm vòng tròn. Chúng không đứng yên một chỗ mà khi cái nhóm đi thì phần hào quang bao nhóm với bên ngoài cũng di chuyển theo. Tinh linh có ý thức rõ ràng về nhịp điệu, vì dù chúng múa tự nhiên và theo hứng, nói chung tiên nữ vẫn giữ nhịp.
Trong lúc tôi ngắm nhìn các cô, ở giữa vòng chậm rãi sinh ra một khối hình cầu hay hình trái tim mầu hồng, rung động phát ra một lực chẩy thành đường mảnh mai như vân. Cái bao hào quang lúc này nở lớn đáng kể, giống như một cái tô bằng thủy tinh úp ngược. Hình như tiên nữ nghĩ là chúng đang tạo một khối nhiều phần, vì tới đây có những đường bán kính phân chia, hết sức mảnh và nhấp nháy, chia cái hình thành những phần. Nhóm từ từ trôi ra xa khỏi tầm nhìn người tôi.

Lancashire, 1921

Bao quanh chúng tôi là một nhóm tiên nữ kiều diễm đang nhẩy múa. Chúng cười vang và đầy sự vui vẻ. Cô tiên trưởng là cao khoảng 70 cm, xiêm áo trong suốt hay phất phới. Trên trán cô có ngôi sao, và cô mang đôi cánh rộng nhấp nháy các mầu nhẹ rất thanh từ xanh dương sang tím nhạt, nhưng do cử chỉ mau lẹ chúng cho ra cảm tưởng là mầu trắng. Tóc cô mầu nâu vàng sáng, và không giống như các tiên nữ nhỏ, nó chẩy dài sau lưng cô rồi hòa vào các đường lực do hào quang tuôn ra. Thân hình rất mực cân đối, như của cô gái nhỏ, tay phải cầm chiếc đũa thần. Dù nét mặt cô đầy vẻ thanh khiết và sáng láng, gương mặt lại cùng lúc lộ quyền uy rõ rệt. Nó thấy rõ nhất ở đôi mắt xanh trong trẻo, rực sáng như ánh lửa cho ta nghĩ đó là ngọn lửa sống động. Lông mày rộng và thanh tú, mặt nhỏ và tròn, đôi tai bé tí xíu thực hài hòa. Trọn thân hình xinh đẹp tuyệt vời này không có góc cạnh nào. Tinh linh giữ đầu, cổ và vai hết sức uy nghi như một nữ hoàng, và trọn thể đứng tỏ ra nét thanh nhã, diễm lệ. Một vầng sáng mầu xanh nhạt bao lấy cô tiên yêu kiều, làm thêm nét tú mỹ của cô với những lóe sáng bắn tung nhẩy múa quanh đầu. Phần dưới hào quang mầu hồng vỏ sò, tỏa ra ánh sáng trắng.
Cô nàng cảm biết sự hiện diện của chúng tôi, và duyên dáng đứng yên một lúc để chúng tôi có thể ngắm kỹ. Cô giơ chiếc đũa lên, dài khoảng nửa cánh tay cô, mầu trắng, sáng chói, một đầu lấp lánh ánh sáng vàng. Tiên nữ cúi người một cách thanh nhã, tựa như nữ diễn viên chính trong một vở nhạc kịch chào từ biệt đám đông khán giả hâm mộ nàng. Tôi vẳng nghe tiếng nhạc ngoài xa, rất nhỏ và thanh không thể nói, âm thanh phát ra như thể dùng những chiếc búa tí hon đánh vào mấy cây kim bé xíu lơ lửng. Có lẽ đó là một chuỗi tiếng leng keng hơn là một khúc nhạc liên tục, nhưng có cảm tưởng ấy là vì tôi nghe không rõ. Bây giờ cả nhóm bay lên cao rồi biến mất.

CHƯƠNG  VI
Thiên Tiên

Chữ ‘sylph - thiên tiên’ được dùng theo hai nghĩa: hoặc để tả những tinh linh làm việc trong không khí nhiều hơn là trong đất, nước hay lửa; hoặc để gọi một giai đoạn trong đường tiến hóa của thiên thần. Tôi muốn nói là tựa như đường tiến hóa của nhân loại đi qua kim thạch, thảo mộc, thú cầm rồi con người, tinh linh cũng tiến hóa trải qua đất đá, cây cỏ rồi tới chim muông, cá và côn trùng. Những tinh linh thấp chúng ta vừa làm quen ở vào trình độ tương đương với thú nhà, kế tiếp là giai đoạn ‘sylph’, và sau đó chúng có thể hoạt động như một thiên thần cá biệt. Tuy nhiên trong quyển sách này, chữ ‘sylph’ dùng để chỉ những tinh linh có liên hệ đến gió, mây và bão.

Bowland, July, 1921

Thẳm trên cao, nương theo sức gió tôi bắt gặp một bầy sylph. Tinh linh thầp hơn người nhưng hình dáng y hệt chúng ta tuy không có phái tính. Sylph tụ nhóm hai hay ba và lướt mau lẹ trên bầu trời. Cách chúng đùa giỡn và kêu gọi nhau lộ một vẻ mạnh bạo; tiếng la hét của sylph giống như tiếng gió rít.
Mới thoạt trông tinh linh dường như mang đôi cánh trắng tuyệt đẹp, dính vào người từ vai xuống đến chân và người ta tưởng như có thể thấy cả một hình rõ rệt nằm trong đôi cánh mà đúng ra, chỉ là ảo ảnh do các lực tuôn chẩy qua hào quang tinh linh tạo thành. Sắc chính của cả bọn là hồng nhạt và xanh da trời, còn bao quanh đầu chúng là một vầng sáng lấp lánh đủ mầu. Nhóm ba tinh linh chúng tôi đang quan sát biểu diễn một cảnh tượng thật ngoạn mục. Trong lúc chúng quay tròn và bay trong không, nhiều mầu rực rỡ lóe sáng mau như chớp, hoặc ngay giữa bọn hoặc quanh chúng theo đủ mọi chiều, nhưng thường là bắn lên không. Thỉnh thoảng mầu sắc hợp thành băng dài nối nhau, rồi cuối cùng phai dần thành đủ mọi mầu, nhiều nhất là mầu xanh, hồng, xanh lá cây, chàm, xen lẫn trong đó là những vệt lửa vàng nhấp nhấy. Mầu sắc trong băng được xếp theo thứ tự rõ rệt nhưng tôi không rõ điều ấy có nghĩa gì. Cái dễ thấy nhất là chúng biểu lộ nỗi vui sướng cuồng nhiệt.
Những tinh linh trong không mang vẻ mặt nữ đẹp một cách lạ lùng, mạnh mẽ, vui sống, cương nghị, cho dù bề ngoài chúng trông hững hờ. Tinh linh di chuyển mau lẹ gần ngang với ánh sáng, khoảng cách xa chừng 15 - 20 km mà chúng vụt cái đã tới ngay; thân hình chúng làm toàn bằng chất liệu cõi tình cảm.

Trên sườn Helvellyn
April, 1922

Đang ngắm vài cụm mây bão sắp kéo tới thung lũng, tôi gặp một số tinh linh trông tựa như chim bay tới trước các đám mây ấy một cách mau lẹ. Nhiều kẻ sắc diện đen đúa, không dễ coi khiến ta liên tưởng đến loài dơi. Chúng bay trở lui rồi vụt tới trước, băng qua thung lũng, đôi khi lượn vòng sát những ngọn đồi. Cả bọn mang theo sự khích động, cho ta cảm nghĩ chúng tạo nên môi trường điện lực và từ lực vốn luôn gặp trong một trận bão. Khuôn mặt chúng giống người, dễ nhìn nhưng không có vẻ thân thiện; phần dưới thân hình không được tạo trọn nên chúng có vẻ giống như chim mang bộ mặt người. Tuy vậy tinh linh bay mau hơn bất cứ loài chim nào, giờ đây cả bọn lướt qua thung lũng lần nữa.
Đám mây chuyển hướng và tinh linh dẫn đầu bay về phương nam. Chúng khá đông, chừng hơn một trăm trong đó vài kẻ nhạt mầu hơn. Tiếng kêu của chúng nghe lạ tại, vang lồng lộng bên ngoài đám mây; loại tinh linh này khác với những sinh vật mạnh bạo hay gặp trong cơn giông tố; loài sau này to hơn và làm ta chú ý ngay bởi những đốm sáng vàng rực rỡ thấy trong đám mây bão.
Hiển nhiên có nhiều loại tinh linh bão khác nhau về mức độ tiến hóa, kích thước và quyền lực.

Tinh Linh Bão
Trận bão lớn tại London, 3 am
10 July, 1923

Trên không có những sinh vật ghê gớm, kinh khiếp không tả được, trong lúc sấm đùng đùng và chớp lóe sáng ngoằn ngoèo tiếp tục suốt đêm.
Hình dạng chúng phảng phất như loài dơi khổng lồ. Thân hình như người, mà chiếu sáng như ánh chớp qua đôi mắt to xếch cao lại không phải là hồn người. Sắc chúng tối như đêm đen, hào quang giống ngọn lửa đỏ bao quanh người, phân làm hai cánh sau lưng, tóc là lửa, chảy dài ra sau đầu y như những lưỡi lửa.
Hằng ngàn sinh vật như vậy mà cái mô tả trên chỉ là nét tổng quát, quay cuồng nhào lộn ở giữa trận bão. Lực thiên nhiên bùng nổ cho chúng tâm thức ngất ngây, (chữ ngược lại với ngất ngây thì có lẽ đúng hơn, vì ảnh hưởng chung cho ra phương tiện khiến tinh linh xuất hiện và biểu lộ được). Chúng quay tròn, đâm thẳng xuống, bắn vụt đi, tung lên cao và lượn lập lờ, có vẻ tăng cường thêm lực của bão mà chúng là hiện thân.
Đằng sau và bên trên chúng ngay giữa tâm bão là một vị mà các tinh linh bão và sự cuồng loạn chỉ như cánh muỗi đập nhẹ. Ở chính trung điểm ta thấy một dại thiên thần hình người mà rất đỗi cao tột hơn người về vẻ mỹ lệ, oai nghi và quyền lực. Nhờ việc ý thức sự hiện diện của ngài trong cơn bão mà tôi giữ được can đảm và bình tĩnh, khi một trong các tinh linh đen đủi dường như đâm bổ xuống ngay trước khi có lằn chớp rạch bầu trời với dòng lửa, và trong một lúc bay lượn trên đầu chúng tôi. Đôi mắt hừng hực, bừng sáng diên cuồng, chiếu thẳng vào mặt đất bên dưới. Tiếp xúc được với tâm thức trong đôi mắt ấy chỉ một phần ngàn giây đồng hồ, làm tôi choáng váng và kinh hãi như chưa bao giờ bị vậy, trừ lúc tôi ở trong quân đội hồi thế chiến I, trải qua những đêm thấp thỏm với bom và đạn rơi quanh.
Cảnh ngộ hiện thời làm tôi nhận chân được giá trị kinh nghiệm khi đó, vì lập tức tâm hồn chế ngự được nỗi sợ hãi, làm cơ thể đang run rẩy vì bắt gặp tinh linh và vì tiếng sấm điếc tai đi kèm, hóa bình tĩnh, yên lại. Ngay khi ấy tinh linh khủng khiếp vút đi xa, phát ra tiếng kỳ lạ, đắc thắng, không phải là tiếng người, và tiếp tục vang vọng mãi như hàng ngàn miệng hét suốt đêm.
Ở giữa cơn gào thét này có sự bình lặng, an nhiên không gì lay chuyển nổi, có uy lực mà ngay cả những đội binh cuồng loạn phải tuân theo. Chúng không thể vượt quá một giới hạn nào đó vì tinh linh luôn luôn bị một Ý kềm chế, trên hẳn lực của chúng, trong khi sinh vật quay cuồng điên dại với trận bão trọn đêm, giờ này sang giờ khác.

Geneva, 1924

Trong lúc tôi đang ngắm bầy thiên tiên bay mau lẹ tít trên không trung, một kẻ trong bọn dừng lại một chút, tiến đến gần bọn tôi.  Sinh vật hạ xuống chậm chạp cho tới khi anh ngưng lại như dừng chân nghỉ ở cách mặt đất chừng 1,3 m và đứng yên ở đấy, lộ ra một hình đẹp tuyệt trần, lơ lửng trong không gian ngay trên đầu ngọn cỏ dợn sóng.
Thân để trần, không có phái tính nhưng lộ cung cách nam giới, cao khoảng 2,5 m, cân đối toàn hảo, đường nét thật mỹ lệ. Quanh sinh vật có hào quang lớn khoảng gấp ba thân hình, tỏa ánh sáng ra xa hơn nữa ngoài chu vi. Giữa thân có điểm như luân xa ở gần tùng thái dương, hết sức linh động và sáng chói rực rỡ. Mầu của hào quang có vẻ như phát ra từ trung tâm lực này, tuôn chẩy thành những lượn sóng ra ngoài bìa. Khi lực xoáy đi như vậy, nó sinh ra hình rất đỗi phức tạp cùng những đường lực và giải mầu. Tất cả những đường này có hình vòng cung, liên tục lồng vào nhau như rổ tre đan, và trọn trung tâm lực quay tít rất mau, chói sáng lóa mắt.
Mầu chính của hào quang là vàng và hồng, có trộn một sắc xanh lạ thường mà hỗn hợp cho ra nét tím, chẩy tiếp nhau trong hào quang. Thêm vào đó, những đường lực từ thân túa ra, rẽ hai ở vai làm giống như cánh trổ dài cao vượt đầu.
Tiếp xúc với tâm thức của sinh vật tuyệt mỹ này cho một cảm giác ngất ngây, bừng sáng và vô cùng linh hoạt. Tâm thức của tinh linh tác động lên phần hào quang trên đầu, sinh ra những mầu khác với cái đã nói, hiện ra rồi mất đi tùy theo hoạt động của bộ óc.
Tinh linh dang tay mời gọi, phóng đến chúng tôi một luồng năng lực khiến hào quang chúng tôi rung động mạnh hơn. Nâng cao tay và đưa lên thẳng, tinh linh có vẻ như muốn chúng tôi tạm rời thể xác để cùng anh bước vào thế giới tâm thức cũng như không gian cao hơn, nhưng khi thử làm vậy (bước ra khỏi thể xác), đầu chúng tôi bị đau nhói nên đành phải từ chối lời mời của anh một cách tiếc rẻ.
Tôi thấy rằng ngay cả lúc con người kinh nghiệm nỗi hân hoan, say đắm tột đỉnh, cảm xúc loài người vẫn không mạnh mẽ, sống động bằng cảm xúc tinh linh trong điều kiện bình thường như nơi sinh vật mô tả ở trên.

Vân Tiên
Grand Salève, 1924

Vân tiên dường như kết hợp đặc tính của Thủy tiên và tinh linh không khí. Chúng ngụ ở trong và chung quanh mây, nhồi nắn mây thành đủ hình và giữ cho hình được nguyên bằng năng lực ý chí, khi gió làm biến đổi những hình này. Ở giữa những đám mây lớn có nhiều ánh sáng mặt trời là một vùng không gian kỳ diệu, nơi đó vân tiên tự dựng nên lâu đài, cung điện và đủ loại nhà cửa trong chuyện thần tiên. Thỉnh thoảng dưới sự điều khiển của một thiên thần cao, tinh linh hợp sức nhào nặn cả một đám mây. Được ngắm một vầng mây nhỏ tự tách ra rồi có dạng lạ lùng như thú vật cổ quái, chim chóc, côn trùng hay cá là chuyện thật thú vị. Ta có thể xem những cụm mây như là trường học nơi việc nhồi nắn tinh hoa chất được chỉ dạy, cùng với việc tạo đủ loại hình thể, để chuẩn bị cho tinh linh làm những công việc khó hơn với vật chất đậm đặc hơn.

CHƯƠNG  VII
Thiên Thần

Với người đông phương, chữ ‘deva’ chỉ các sinh vật có cơ thể sáng chói, với đủ mọi hình dạng và chức phần. Trong các bài này tôi sẽ giới hạn câu chuyện vào thiên thần nào liên hệ đặc biệt với thiên nhiên, đó cũng là những vị mà tôi có cơ duyên học hỏi. Chương này chỉ nói về những thiên thần có liên quan đến loài thảo mộc, thường sống ở miền quê thanh vắng, xa cách người. Xác thân không quan trọng với họ như là với ta, vì thiên thần đã quen với việc hình hài bị tiêu hủy, họ không thấy có gì khác nhau giữa một cái cây bị sét đánh gục hay một xác bị cán chết. Thiên thần có cái nhìn theo quan điểm của thiên nhiên, theo đó sự hủy diệt hình hài chỉ là biến cố thường tình, tự nhiên. Họ không sao hiểu được tình cảm loài người và giá trị chúng ta gán cho hình thể, cũng như không mong gì loài người hiểu được quan niệm có vẻ nhẫn tâm của thiên thần. Một khác biệt rõ ràng nữa là họ ít để tâm vào chi tiết. Thiên thần của đồng nội làm việc trong không gian rộng lớn núi đồi tiếp nhau, và sử dụng năng lực thiên nhiên mạnh mẽ, họ không hề nghĩ mình là một phần tách biệt với thiên nhiên. Các ngài hiện thân cho năng lực thiêng liêng, là sức sống của đồng nội, và có thể xem là tác nhân và con kinh để ý chí Thượng Đế tuôn tràn và biểu lộ trong thiên nhiên.

Thiên Thần Đồng Nội
Lake District
November, 1921

Nơi vùng có đông đảo dân cư thần tiên cư ngụ này, tôi thích thú nhận ra đủ mọi trình độ tiến hóa, từ chú lùn bé tí đến brownie, gnome và tiên nữ rồi thiên thần cấp cao. Nhìn chung mà nói, loài thấp ở gần mặt đất, ở cao hơn nhiều là một bầy tiên nữ sắp có tâm thức cá nhân, tỏ ra bằng quyền năng ý chí và óc thông minh, rồi tít trên cao ở đỉnh núi là đủ loại thiên thần, các ngài  hiếm khi đi sâu vào lòng thung lũng mà rất thường khi bay xa tắp trong không. Mới thoáng trông tôi thấy nhiều hình dáng bay lượn mau lẹ trên sườn núi giữa trời. Có lúc đó là một dáng người giữ nguyên hình thể trong một quãng xa, có lúc ta chỉ thấy một tia sáng vụt đi theo chiều nhất định. Cảnh vật giống như sự giao thông trong đô thị lắm người mà không có nhà chọc trời hay tiếng động. Dù nhìn xa, nhìn gần hay nhìn bất cứ hướng nào tôi cũng thấy hiện tượng này.

Thiên Thần Sắc Trắng
Lake District, June, 1922

Phía trên cao đằng sau chúng tôi, tôi bắt gặp một số thiên thần mầu trắng, hào quang của họ tựa các đám mây mỏng xinh đẹp. Mới thoạt nhìn, có vẻ như họ mặc áo rộng bay phất phới giống y phục Hy Lạp xưa; họ có hình dạng người với đa số thuộc phái nữ, gương mặt tròn, thanh, đôi mắt tỏ ra dịu dàng hơn những loài thiên thần khác. Hào quang làm bằng chất liệu thanh hơn quần áo và đẹp tuyệt vời, mầu sắc hào quang hết sức dịu, xếp thành vòng đồng tâm. Từ ngoài đi vào tôi thấy mầu trắng tím nhạt, vàng, hồng, hồng nhạt và phần hào quang sát ngay cơ thể có mầu trắng đậm đặc hơn một chút, tất cả những mầu này vô cùng xinh đẹp và rất đỗi yêu kiều. Thứ tự các vòng đồng tâm thay đổi rất thường, hay bị che khuất bằng những mầu khác túa ra khi tâm thức biến đổi.
Từ đầu, vai và bìa cơ thể, hào quang phóng những đường lực thanh bai chói sáng lên cao khoảng 1 m; điều này khiền hình dáng thiên thần khác xa loài người cũng như cho thấy đầy sức sống, chung quanh đầu các vị lấp lánh nhiều tia chớp và những lóe sáng mầu vàng rực rỡ. Mỗi khi thiên nhiên chú tâm vào việc chi, đôi mắt bừng sáng một cách lạ lùng cho thấy trí óc đang làm việc. Ở những phần khác của hào quang cũng có nhiều lằn lực tương tự tuy nhỏ hơn, đặc biệt quanh đôi chân. Bàn chân thiên thần rất tuyệt mỹ, để trần và rất giống người. Các vị này cao khoảng 1,8 m, hào quang lớn rộng gấp hai thân xác.
Hình dạng thiên thần luôn luôn chuyển động, cho ta có cảm nghĩ như thể chúng hết sức mỏng manh, thanh nhẹ và có thể bị tan rã dễ dàng. Nơi giữa trán có một tâm mầu trắng sàng chói lọi, hai bên đầu có tâm giống vậy còn ngay ở đỉnh tâm mầu vàng, phóng lên cao những luồng lực sống động; tâm ở giữa yết hầu không được linh hoạt bằng. Tất cả những tâm này cùng với luân xa ở tùng thái dương xem ra là các trung tâm lực của sinh vật. Luân xa ở tùng thái dương chuyển động theo chiều kim đồng hồ rất mau lẹ với nhiệm vụ duy nhất là hấp thu. Khi chú tâm vào đó, tôi thấy được bên trong luân xa và cũng cảm được nhịp linh hoạt của nó, có thể nói đó giống như nhà máy phát điện, hình cái tách lõm ở trước khi mới thoạt trông, nhưng khi tôi chú ý hơn cái tách lõm nở ra mọi bề. Dường như tâm này hấp thụ năng lực, còn những tâm khác tỏa năng lực cùng biểu lộ tâm thức thiên thần.

Thiên Thần của Hồ
Bờ phía nam Thirlmere, June, 1922

Trong một lần đi dạo buổi chiều, tôi chú ý đến một thiên thần đang đứng yên lặng trên hồ, chăm chú nhìn xuống mặt nước như muốn xuyên thấu tận đáy.
Dù không có phái tính, hình dạng thiên thần mang nhiều nét của người nam. Hồng nhạt là mầu chính nhưng có nơi biến thành đỏ sậm, gương mặt trẻ trung xinh đẹp, đều đặn không góc cạnh, xương gò má nhô cao với đôi mắt nằm rất xa nhau xếch phía đuôi mắt. Trọn hào quang bắt nguồn từ phía sau lưng, hướng nghiêng lên cao như là được gió nâng lên.
Thiên thần đột nhiên lướt ra xa chừng hơn 200 m rồi dừng lại theo y tư thế như trên, tập trung tâm thức chăm chú nhìn xuống hồ. Dường như thiên thần có liên hệ với sự tiến hóa bên dưới mặt nước, nhiều đường lực phát xuất từ mắt và tay thiên thần đi thẳng xuống hồ. Sự chú tâm của thiên thần giống như người để hết tâm hồn quan sát vật gì tỉ mỉ, trong nửa tiếng đồng hồ từ lúc tôi gặp thiên thần không hề xao lãng phút giây. Tôi có cảm tưởng là sinh vật ở dưới quyền một vị cao hơn, và ảnh hưởng vị này luôn luôn sống động trong tâm thức thiên thần.

Thiên Thần trên Đồi
Lake District, November, 1921

Trên sườn đồi và một ngày nắng đẹp nhưng lạnh giá, chúng tôi bắt gặp một số thiên thần ở bên phải gần đỉnh đồi. Cả bọn tỏ ra hết sức vui vẻ, hớn  hở; niềm hoan lạc này tràn đầy trong không khí và lộ trên nét mặt của họ. Thiên thần cao từ 2,5 - 3 m, thân hình mảnh mai có mầu sắc của thảo mộc trong vùng: mầu nâu và xanh thẫm của cây sung, mầu vàng chói và xanh nhạt của cỏ; còn nhiều mầu khác nữa làm thân thể sinh vật chiếu rực rỡ và khi thiên thần trò chuyện, những dải mầu bay tới lui.
Nhóm có hơn 100 thiên thần mầu sắc không hoàn toàn giống nhau, một số có mầu nâu là sắc chính, số khác là xanh lục, và số nữa là mầu vàng rực. Đi kèm với những mầu chính này còn nhiều mầu phụ khác. Các thiên thần nhỏ mang cánh bay hay cái tương tự vậy, còn thiên thần lớn sống gần đỉnh thì không. Sinh vật bay lướt trong thung lũng từng đôi một, có lúc hết sức mau có lúc chậm rãi hay ngừng lại chơi đùa trong không.
Trong lúc tôi đang ngắm cả bọn, một thiên thần rất cao lớn từ sườn đồi cao bay vút tới thung lũng. Hình dạng sinh vật thật đẹp tuy vì thiên thần di chuyển quá mau nên tôi không thể nhìn kỹ. Sinh vật có hình thể nữ, cánh rất lớn, cao từ 2 - 2,5 m, mầu chính là vàng và đỏ tươi. Thiên thần lướt mau hơn bất cứ loại chim nào trong khi các sinh vật nhỏ hơn di chuyển chỉ mau bằng con chim bay lẹ.
Có rất nhiều thiên thần cư ngụ vùng đồi này. Tôi bắt gặp chúng khi sinh vật rời núi đá từng cặp, từng nhóm hay một mình băng ngang thung lũng qua ngọn đồi đối diện, lúc ngưng lại giữa trời lúc vút lên cao thẳm, nhưng không thiên thần nào bay xuống giòng suối thấp hơn trăm m dưới chân đồi. Bây giờ tôi có thể nhìn kỹ thiên thần ở trên. Hình dạng thật quý phái đẹp đẽ. Lúc đầu sinh vật đứng yên nhìn chúng tôi, chụm hai chân tay dang rộng, hào quang có vẻ đậm đặc bên trong hình tam giác ngược họp bởi hai đầu ngón tay và bàn chân. Sau đó thiên thần nâng tay theo đường vòng cung thanh nhã, đan các ngón trên đầu làm thành vòng tròn chồng lên hình tam giác ngược, vì dù vị trí cánh tay thay đổi, năng lực ý chí vẫn giữ nguyên vẹn hình tam giác. Gương mặt ở giữa vòng tròn nhìn ra ngoài tăng thêm lực cho biểu tượng thiên thần đang tạo, những nét đậm của thân hình chính giữa khối hào quang làm biểu tượng giống thập tự Tau của Ai Cập.
Bây giờ thiên thần dang tay đầu hơi cúi, tư thế này làm hào quang đậm đặc hơn và có nhiều mầu đỏ hơn. Nhưng cử động này hết sức yêu kiều, làm như có ý nghĩa liên hệ đến sự biểu lộ các lực trong thiên nhiên. Tiếp theo còn nhiều biểu tượng khác nhưng mắt tôi mờ đi, có lẽ vì đã chăm chú nhìn quá lâu. Thiên thần bây giờ quay tít người thành vòng tròn đều, nhưng tôi không còn đủ sức theo dõi nữa.

Thiên Thần Mầu Tía
Lake District, June, 1922

Sau khi leo lên một vùng núi đá cách mặt đất hơn trăm m, chúng tôi quay sang tiến đến một khe núi, vừa bước tới đó chúng tôi kinh ngạc bắt gặp một đại thiên thần dường như ngụ bên trong sườn đồi.
Cảm tưởng đầu tiên cho thấy đó là sinh vật to lớn giống loài dơi, mầu tía sáng chói nhìn tôi chăm chú với đôi mắt rực lửa. Hình thể không tụ lại giống chúng ta mà trải rộng như dơi, mặt và đôi mắt giống người. Khi biết mình đang bị quan sát, sinh vật thâu hào quang gọn lại nhìn tôi chằm chằm rồi biến mất vào bên trong sườn đồi. Lúc tôi mới bắt gặp hào quang thiên thần rộng vào khoảng cả trăm m, nhưng khi hiện ra trở lại, sinh vật chỉ còn cao khoảng 4 m. Những đường lực vô cùng xinh đẹp chẩy ngược ra sau lưng giống đôi cánh dài từ đỉnh đầu xuống đến chân, dang rộng phía sau theo những đường cong uyển chuyển, linh động.
Mầu sắc đậm hơn nơi những thiên thần tôi đã gặp trước đây: hào quang có sắc chính là xanh dương đậm và thêm vào đó là xanh dương nhạt, vàng, hồng và mầu lục, có chỗ mầu sắc xếp đặt thật rực rỡ y như đuôi công, và nói chung hào quang cho một vẻ chói lọi chẳng khác gì lông công.
Thiên thần tỏ ra đầy nam tính, sung sức, cường lực. Hào quang rung động phát ra những gợn sóng nối tiếp nhau cho ta có cảm tưởng đang ngắm một bức màn ngũ sắc bị gió thổi mạnh. Thân hình ở giữa mầu tím đậm cùng với phần hào quang bao sát thân hình, toàn thân dường như rực sáng mầu này. Có vẻ như thiên thần chăm nom sự tiến hóa của vùng này, làn rung động mạnh mẽ của thiên thần được cảm nhận rõ, có tác động thúc giục trên kim thạch, thảo mộc, thú cầm và tinh linh trong vòng ảnh hưởng. Chưa bao giờ tôi được quan sát tường tận như hôm nay, và kinh nghiệm gây ấn tượng sâu trong lòng. Nhiều giờ sau, cơ thể tôi vẫn còn lâng lâng sảng khoái do việc tiếp xúc mà ra.

Thiên Thần Của Cây
Thirlmere, February, 1922

Một nhóm cây thông rất già mọc trên sườn đối phía tây của Thirlmere cho thấy có bản tính rõ nét, vài cây khác cũng lộ nét tương tự, muốn nói chúng đã tiến xa, tràn ngập sức sống khác hẳn tâm thức một cây bình thường. Ta không thấy có sự bình lặng của cây sồi hay lao xao của cây du, ở đây sức sống thật sâu đậm như thể hồn cây đã hấp thu tính dữ dội, và mãnh liệt của mưa bão cây đã gặp trong bao năm qua. Nét mãnh liệt của tâm thức càng mạnh do sự hiện diện của một số tinh linh rất linh hoạt trong rừng. Chúng di chuyển mau lẹ, luồn qua cây và không ngừng khích động cây với luồng rung động của mình. Năng lực tuôn tràn qua sự rung động mạnh đến nỗi thành tiếng như âm rì rầm của máy xe nổ đều. Vài tinh linh xem ra có liên lạc chặt chẽ với cây này hơn cây khác, tới lui chỉ một nơi và bao trùm cây, hay là nhóm cây ấy với hào quang của mình. Tinh linh khác di chuyển đó đây ở đầu cành, đôi lúc vượt cao trong không nhưng chẳng thấy chúng là đà trên mặt đất.
Tôi lại cảm nhận tính cương cường, hoạt động liền liền của bọn chúng vốn là đặc tính công việc của tinh linh, chúng đã thành công trong việc tạo nên nét chính trong làn rung động của hào quang nguyên nhóm cây, và ta thấy sự hiện diện của tinh linh rất cần nếu muốn duy trì năng lực phát ra từ đó. Ở cõi trần, năng lực biến thành ảnh hưởng từ lực mạnh mẽ, có thể nhận ra được với giác quan thường. Tinh linh dường như chưa có bản ngã riêng, chỉ có tâm thức nhóm. Tôi không thấy được thân hình từ bụng trở xuống. Đầu và vai là hình người rõ rệt nhưng tiếp theo đường nét nhòa, qua đó thật nhiều làn sinh lực túa ra mọi hướng tạo nên hào quang. Bên trong hào quang có những xoáy với lực dồn dập lúc có lúc không, nhưng đường lực chính tỏa ra giống hình đôi cánh. Trung tâm của sức sống ở giữa trán có dạng luân xa rõ rệt. Đôi mắt sáng rực dị thường, giống như một trung tâm lực hơn là con mắt; dường như chúng không thể nhìn xa, và tôi tự hỏi mắt tinh linh được dùng để nhận diện sự vật hay chỉ giới hạn vào công việc. Tâm thức chúng ngụ ở mức cao hơn, và sự cảm nhận thế giới bên ngoài có được từ một quan năng bên trong, không do đôi mắt. Tinh linh chưa thông minh lắm, dù có sức tập trung tư tưởng cao hơn người thường và cần mẫn làm việc, chúng thật giản dị, ngây thơ chẳng chút suy nghĩ gì.

Preston, 1921

Đang bước trên cánh đồng chúng tôi thấy một thiên thần cây vụt đến trước mặt, đối diện một cây liễu cách tôi 50 m. Thiên thần mầu bạc, dường như thuộc về cây liễu, cao bằng người. Cô đứng yên bên trong hào quang cây và chăm chú ngắm bọn tôi, hào quang của cô mầu bạc, còn thân thể mầu da người. Cô tỏ vẻ thân thiện với chúng tôi, và thật ân cần chăm chút gần như có tình mẫu tử với cây. Thân hình rất xinh đẹp, nhất là đôi tay dài, dịu dàng, hào quang gợn sóng như thác nước rơi. Cô không mang cánh tuy các đường lực cho ta cảm tưởng ấy. Môi đỏ, má hồng, miệng cười thật tươi; nếu hiện ra ta sẽ tưởng cô là người thật.
Ngắm nhìn cô lâu tôi cảm thấy bị mê man, đây là cảm giác chung cho ai tiếp xúc mật thiết với thế giới thần tiên.
Xem ra cô ý thức hoàn toàn khắp phần thân cây trên mặt đất, hào quang lớn rộng bao trùm thân cây liễu, cô tỏ vẻ không muốn rời xa cây dù thừa sức làm vậy. Tôi thấy cô có biết sự sống của người song song với sự sống của cây, và ngắm nhìn ai qua lại một cách dửng dưng vô tâm. Nhiều tinh linh thấp hơn liên hệ với cây làm đủ việc. Thiên thần không phải là người ra lệnh, nhưng biết công tác làm và thỉnh thoảng kiểm soát hoạt động của tinh linh.

Rừng Epping
July, 1923

Phẩn này của khu rừng có rất nhiều thiên thần cây ngụ với vẻ đẹp lạ thường, khác hẳn những thiên thần ta đã gặp về nhiều mặt. Một khác biệt rõ rệt là dường như cả bọn có một cái gì tựa như sự tương thân, đối nghịch với nét dửng dưng và dè đặt của nhiều thiên thần cây khác. Chúng chưa có cá tính riêng, mang hình dạng phái nữ, sắc chính là mầu lục và giống ngọc bích hơn là sắc lá, nhưng không có vẻ sống động hay gặp với ngọc bích; đó là mầu lục êm, không lấp lánh hay sáng rỡ, gần như bề mặt trơn không láng mướt; trộn với mầu lục ấy là mầu nâu vàng tựa như là cây mùa thu có nắng dọi.
Phần lớn thiên thần có dạng thiếu nữ trẻ, cao bằng người. Tóc sậm, dài, thả lỏng cho các nàng một tí nét hoang dã. Vài cô trên đầu và cổ có vòng kết bằng lá. Đôi tay trần và thân hình từ lưng trở xuống thường không rõ lắm; ta thấy một đường lực tuôn xuống, lung linh nhưng khá đều với mầu giống như thân cây. Tôi để ý thấy khi các nàng di động giữa những cây, đôi chân có hình rõ ràng và ánh mầu da người qua làn hào quang. Khi bay lượn cánh xếp lại và nếu đi trên mặt đất chúng lại có dạng bình thường cho các cô bước, nhẩy múa hay làm điệu bộ. Cử động thiên thần rất đỗi yêu kiều khi phóng mình hay lơ lửng giữa đám cây. Chúng vui vẻ, vô ưu, là hiện thân cho cá tính của khu rừng mà ta liên lạc được.
Một loài tương tự ngụ ở những cành cao hơn vài chỉ có đầu với vai là rõ nét; phần còn lại của thân hình chỉ là một dải hào quang dài, mờ lần rồi hòa vào bầu không khí chung quanh. Đầu tinh linh ngang với chóp cây và hào quang tinh linh bao trùm hết cây. Hình như mỗi cây lớn có một thiên thần như vậy. Trong vài trường hợp hào quang lan ra phủ những cây nhỏ hơn, và chỗ nào có nhiều cây mọc sát nhau thành vòng thì có vẻ như hai thiên thần chung sức lo trọn vòng.
Quan sát kỹ tôi thấy có hai loại thiên thần cây, loại vừa tả thuộc hạng cao và có tâm thức rộng mở hơn. Mắt chúng sáng đặc biệt, xếp thành góc trên mặt, có vẻ bình thản và chững chạc mà thiên thần nhỏ hơn chưa có. Hào quang trên đầu thực rực rỡ ngược với mầu hơi sậm của khu rừng. Mầu vàng, đỏ tươi và tím bao quanh đầu thành vòng bán nguyệt đồng tâm, nhấp nháy và lóe sáng trong bầu không khí trên cao, khác hẳn vẻ bất động của phần thân thể đậm đặc hơn. Tiếp xúc gần gũi hơn nữa với một thiên thần, tôi bắt đầu cảm được sự già dặn vô cùng và lòng kiên nhẫn không mỏi mệt. Trong đôi mắt thiên thần có sự hiểu biết thật vững chãi, một vẻ quả quyết bình lặng, phản chiếu cái tâm thức đã chứng kiến bao nhiêu lần bốn mùa thay đổi mà vẫn ung dung tự tại, để mục đích của thiên nhiên được thành. Đi qua mắt của thiên thần để vào tâm thức họ, tôi cảm nhận một sự kiên cường sống động không tả được bằng lời. Bước từ tâm thức trong bộ óc con người sang tâm thức thiên thần coi giống như từ nước vào lửa. Có vẻ như các vị hoàn toàn không bị đụng chạm và ảnh hưởng khi thời gian trôi, như mỗi mùa của chúng ta chỉ là một ngày với thiên thần. Tâm thức họ không ngụ ở cõi trần, nơi mà hình như thiên thần chỉ ý thức sơ. Chắc chắn họ không để ý chút gì đên con người đi dưới tàng lá của chúng.
Loại thiên thần nhẩy múa tả ban đầu biết đến sự hiện diện của chúng tôi và tỏ chút thân mật, đôi khi chúng tụ lại thành nhóm với dáng điệu thật tuyệt vời, bất động như thế một lát rồi bay lượn thanh nhã trở lại. Vài cử chỉ rất lạ lùng, phóng đại tới mức cùng cực, những điệu bộ khác y hệt của người Hy Lạp xưa; một số theo đường vòng hết sức dịu dàng và đường thẳng uyển chuyển, cái khác cứng đờ, góc cạnh. Chúng di chuyển không đi theo lối phóng mình lẹ làng như thấy ở các loài tinh linh khác. Thiên thần đi chậm rãi, uốn mình mềm mại cả lúc bước hay lửng lơ.
Có một loài tinh linh khác giống nai, cao chừng 60 cm, tựa như dương thần Pan trong chuyện thần thoại nhưng không có vẻ xấu xí. Phần trên thân hình là bé trai chừng mười hai, mười bốn tuổi, phần dưới tựa như chân nai, vẻ mặt thật rõ nét và có chút láu lỉnh. Tóc quăn. Chúng nhẩy nhót quanh thiên thần, bắt chước họ, đôi khi nhập bọn nhưng thường chỉ chơi đùa vô trách nhiệm giữa đám cây.
Những sự việc này tắm trong ánh sáng mầu tím xám, loại phát ra từ mặt đất và tỏa lên cao chừng hơn ba thước.

Lancashire
February, 1922

Khu rừng gồm cây thông Scott, bạch dương, cây du và trần bì, và một phần được bao bọc bởi hàng sơn trà có chút không đều. Đây là nơi cư ngụ của một số tinh linh nhỏ rất xinh đẹp, cả bọn chừng hai mươi sinh vật. Chúng cao bằng người và hình dạng y vậy, nhưng không có sự khác biệt về phái tính. Mầu chính là xanh trái táo, bắt đầu ở vai với sắc thật nhạt rồi đậm dần, thành quần áo với vẻ đẹp rực rỡ, chẩy dài qua đôi chân tựa như cái đuôi ngũ sắc dài, trong mờ. Trọn thân hình chiếu sáng với vẻ óng ánh trên gương mặt, và biểu lộ niềm vui lớn lao. Vùng này hiện giờ hết sức sống động, dân cư bay lượn xẹt tới lui trong rừng, làm người ta nhớ lại hình dạng những con cá lấp lánh trong dòng suối trong trẻo, thỉnh thoảng nghiêng lườn và phản chiếu ánh mặt trời.
Trọn đồng cỏ rung lên vì sự hiện diện của những sinh vật đẹp đẽ ấy; chúng cách mặt đất chừng 14 m, và bay bằng cách uốn mình mau lẹ từ đầu này tới đầu kia khu rừng, ảnh hưởng nó với một nhịp rung động rõ rệt, một sức kéo từ lực mạnh mẽ do hoạt động có đã lâu, và tái diễn mãi của sinh vật. Chúng làm việc để tạo những làn rung động này vĩnh viễn, và nỗ lực của chúng gây ra những làn dợn sóng nối tiếp luôn, cùng những đợt sóng mầu hồng, vàng, bạc và xanh mầu cỏ nhạt thật rực rỡ bên trong khu rừng. Có vẻ sinh vật đã cô lập đồng cỏ, đặt nó trong bầu từ lực kín, được vây quanh bằng một bức tường ether mà chúng đã dựng chung quanh.
Có hai kẻ quan sát chúng tôi và ngưng lại trong khi đang bay mau lẹ, chúng chú tâm vào bọn tôi và tôi cảm thấy cái rung động lôi cuốn do tiếp xúc với tâm thức sinh vật. Chúng trò chuyện với người trị bệnh đứng sau lưng chúng tôi, anh cũng là người ban đầu đã khiến chúng tôi lưu ý đến công việc của thiên thần; bộ dạng và vẻ trầm lặng của anh đối nghịch hẳn với hoạt động của sinh vật đầy điện này.
Tới đây một tinh linh thứ ba dừng lại ở bìa rừng, cách khoảng 30 m, và ngắm chúng tôi với nụ cười sáng rỡ mê hồn. Hào quang sinh vật từ vai chẩy xuống dưới và ra ngoài, có vẻ như quần áo bay phất phới mầu xanh sáng. Đường lực chẩy thật rõ rệt, mầu vàng lóng lánh bên trong mầu lục, cái theo sau tuôn chẩy. Đôi tay dài quá khổ và đẹp lạ lùng, phất mềm mại trong khi bay.
Tít cao phía cao trên khoảng 100 m là một nhóm khác có liên hệ với nhóm này, nhưng ngoài việc thấy nhiều hình bóng di động, tắm trong mầu hơi giống trời hoàng hôn, tôi không thể tiếp xúc với chúng. Hiển nhiên chỗ này là một tâm quan trọng của đời sống tinh linh và thiên thần, và được chúng nhiễm từ lực cho một mục đích nào đó.

Thiên Thần Rừng Thông
Rừng gần Celigny, Geneva
Thứ sáu, 13 June 1924

Trong khi tôi đang ngắm bầy tiên nữ và chú lùn mà chỗ này có rất nhiều, một thiên thần có liên hệ với khu rừng hiện ra ở bìa đối diện của bãi cỏ. Ngài đặc biệt liên hệ đến những cây thông mà ngài đang đứng giữa. Cái thích thú là khi tôi đang quan sát ngài thì một nhóm sylph bay vút qua đầu ngọn cây. Ngài nhìn lên thấy chúng và quay lại chúng tôi như muốn hỏi có thấy sinh vật chăng. Ngài tỏ ra rất tự nhiên trong đám cây, và có vẻ sở hữu chủ đối với chúng, và trong y phục - hay đúng hơn là phần hào quang giống y phục - có những lằn sọc và hình dạng tựa kim thông. Trên đầu là một vòng rất sáng gồm nhiều mầu rực rỡ, và những mầu này cùng với tua cho ra dạng người da đỏ Mỹ châu, với đầu gắn lông chim và quần áo tua tuội. Tôi có cảm tưởng là ngài đã ở đây từ xa xưa lắm rồi, khi vùng đất còn hoang dại chưa có dân cư; lại nữa ngài  đã thấy nhiều giống dân đến rồi đi. Hình như ngài  quen thuộc rất nhiều với loài người hơn đa số những thiên thần khác, và bắt chuyện dễ dàng. Có vẻ như điểm đặc biệt của nước này là người và thiên thần hết sức gần nhau: tôi có cảm tưởng là thiên thần ít xa lạ hơn và sự tiếp xúc dễ dàng hơn.
Ngài chỉ cho tôi một ít về cách làm việc của ngài. Thiên thần có khả năng dang rộng hào quang rất xa, để bao trùm nhiều cây. Ngài bước lại gần chúng, thu hút vào người bằng một cách giống như thở hơi sâu một luồng đặc biệt năng lực thiên nhiên, tập trung hào quang quanh nhóm cây muốn làm việc, rồi buông ra lực của mình với khả năng khích động mạnh mẽ: nó thúc đẩy hoạt động của tinh linh và kích thích, khơi dậy cái tâm thức đang phát triển trong cây.
Khi ngài  di chuyển trong không khí, thiên thần xếp đặt sao cho lực trong hào quang chẩy xuôi về phía sau lưng, có lẽ để gây thật ít trở lực cho việc di chuyển. Khi đứng nghỉ, hào quang lần lần có dạng bình thường, và ta thấy rõ ràng đường nét của đôi cánh. Ngài không dùng cánh lúc này để bay, hình dạng chúng có là do cách ngài xếp những đường lực chẩy trong hào quang.
Bây giờ ngài kêu từ trong rừng một tiên nữ xinh đẹp, giống như cô gái nhỏ, choàng khăn mỏng xuyên qua đó để lộ thân hình. Ngài gọi tinh linh trong rừng ra, giơ tay trái và cô lướt tới nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay với vẻ vui sướng rõ rệt, nhưng cũng với vẻ tùng phục. Rõ ràng có tình thương mến giữa hai người, tựa như mối liên hệ cha con của chúng ta mà đồng thời cũng có cái giống như tình đồng đội. Cô có liên hệ với một cây, vài phần cấu tạo huyền bí của nó thấu nhập vào người cô, và sự liên hệ giữa nó với cô vẫn còn trong lúc cả hai tách ra. Vừa ra khỏi thiên thần cô lập tức trở vào hào quang từ lực do cây phát ra. Tôi đoán cô là tinh linh cây.
Có một loại chú lùn kỳ lạ ở đây, trôi nổi chung quanh với đôi chân dài không rõ dạng, kéo lê trên cỏ, sinh vật mầu xám với thân hình đồng chất tựa như bông đá. Bàn tay như nắm lại ở đầu cánh tay, bàn chân nhọn. Gương mặt đen và rắn rỏi, trọn sự rung động hơi kỳ lạ không như cái ta quen thuộc ở cõi trần. Ai nhậy cảm đi tới chỗ này ban đêm sẽ cảm được làn rung động ấy.
Cũng ở dưới gốc cây có loài elf rừng ngộ nghĩnh, một nhóm đang nhìn chúng tôi đầy vẻ tò mò chừng 7 m về bên trái chúng tôi. Tinh linh có đầu rộng và tai nhọn nhô hai bên đầu. Thân hình cũng nhỏ so với kích thước của đầu, và vẻ biểu lộ của chúng cho thấy mức phát triển trí tuệ còn rất thấp. Chúng nhẩy nhót và chơi đùa trong đống lá khô, đôi khi nối nhau thành điệu nhẩy kỳ lạ, họp thành vòng tay nắm tay và quay tròn quanh thân cây hay một nhóm cây. Dường như chúng ở trong rễ cây, vì tôi thấy chúng bước ra khỏi rễ ở ngang với mặt đất giống như ta bước ra khỏi cửa nhà.

Nateby, Lancashire
September, 1923

Đây là một khu rừng nhỏ hình bầu dục có nhiều cây trần bì lớn và cây du, rộng chừng nửa mẫu. Nó khác với những vùng ta vừa biết bởi điểm là ở đây chỉ có một thiên thần, mà phương pháp làm việc cũng lạ thường. Thiên thần có đẳng cấp cao và thực hiện phần việc của mình cho khu rừng từ trên cao, cách đầu ngọn cây chừng 100 m.
Dù không phái tính, hình dạng mang nhiều đặc tính nam. Mầu sắc chính là đỏ son và vàng; gương mặt đẹp lạ lùng, đôi mắt rực sáng và sâu thẳm; thân hình bên dưới vai chìm mất trong luồng hào quang chẩy xuống mạnh mẽ bao trùm cả khu rừng, ôm lấy trọn vùng và bao che nó với bên ngoài. Bên trong hào quang dường như có một đường lực chảy ngược lên tới tâm hào quang thiên thần; nhìn về phương diện tâm linh cả khối thật cứng chắc, khoảng không bên trong hào quang chứa đầy những đường lực nhỏ chẩy qua.
Thiên thần đứng hơi bất động, và cứ nhìn ánh mắt mà nói thì ngài  đang rất chăm chú và để ý. Đôi khi ngài hướng đường lực bằng cử động của tay, cho ra hình ảnh cực kỳ xinh đẹp và cảnh tượng khác thường nhất mà tôi đã thấy.
Hào quang thật sự của thiên thần trải thành hình trứng với đủ mầu rực rỡ, những mầu vừa kể nhiều nhất, cách mặt đất chừng hơn 30 m, nó tỏa ngời và lấp lánh như cực quang- aurora borealis -, còn phần dưới cái bao phủ khu rừng, tuôn thành đường cong mỹ lệ và có mầu đỏ son, với những lóe sáng vàng theo đường lực chẩy xuống.
Kích thước hào quang đáng nói: từ mặt đất lên tới điểm cao nhất chừng 50 m, và phần bao trùm khu rừng khoảng 80 x 30 m.

Thiên Thần Vùng Manx
Đảo Manx - Lake District
August, 1922

Tôi có ý thức về sự hiện diện không xa lắm của một vị thần uy nghi, với quyền lực to lớn. Ngài đứng đâu đó trên đỉnh đồi, đầu hơi cúi, nhìn xuống đảo mà có vẻ như ngài chăm nom bên dưới. Trên cái đầu oai hùng có vương miện năm cánh, gồm một vòng dầy với năm cánh đâm lên cách khoảng vòng theo đầu, mỗi bên thái dương có một cái. Tay phải ngài  nắm quyền trượng; thân hình khống lồ, dũng mãnh, gợi ý một sức mạnh vô bờ như không gì cưỡng lại. Nhìn chung thân xác hơi tối, nhưng có thể vì tôi không nhìn thấy ngài rõ ràng, hay vì đứng xa. Thiên thần đứng bất động, như đang chờ đang ngắm, tâm trí hết sức cảnh giác và rõ ràng là ngài tập trung tư tưởng ở cảnh giới bên trên, vượt khỏi những hình thể mà tôi quen thấy. Thấy không chút nghi ngờ gì là có mối liên hệ từ lực, và có thể cả mặt tinh thần, giữa vùng này với Ireland, và thiên thần hình như đại diện cho những lực tinh thần của vùng đất cổ ấy, như là tiền đồn của thần thức thiêng liêng cho Ireland.
Có vẻ như ngài  là một đại thiên thần với quyền hạn đặc biệt chi phối các lực thiên nhiên. Tôi cho rằng ngài  là một thiên thần quốc gia, một quân vương ngày xưa của vùng này. Nhưng về một số mặt khác, ngài  xem như liên hệ nhiều hơn với chính hòn đảo cùng tất cả đất đá, cây cối, tinh linh trên đó hơn là với người, tuy dân cư trên đảo cũng nằm trong tâm thức ngài.
Theo một cách khó mà giải thích, tôi cảm nhận một sự hiện diện của một vị còn cao hơn thế ở Ireland, vị đứng đầu những thần mà thiên thần vừa nói thuộc về. Thấy rõ ngài  có đại diện trong hàng ngũ tinh linh thấp hơn, và tôi cho là vị thiên thần ở Snaefell thuộc về đẳng cấp ấy. Như tôi đã nghĩ, cố gắng tiếp xúc với tâm thức ngài không cho biết nhiều hơn về bản chất của thiên thần, mà cho thấy hình ảnh nằm trong ký ức ngài về quá khứ của đảo này.
Tôi thấy một sắc dân cao lớn giống người bắc Âu, mạnh mẽ, từ trên đồi đi xuống thuyền nằm ở bờ phía đông bắc về hướng Snaefell, như thể đi họp. Quần áo bằng da, tóc dài, giọng nói trầm, cứng. Nhóm khác vạm vỡ, sậm hơn từ hướng tây nam tiến lại gần, và đứng ở cảnh cao này thấy rõ là vào lúc xa xưa hai bên đã xung đột dữ dội. Vào thời ấy đảo rộng hơn bây giờ, có ít nhất hai sắc dân khác nhau sống trên ấy, và mối liên hệ cả về tinh thần lẫn vật chất với Ireland thì chặt chẽ hơn là với Anh.
Tập tục nói rằng có một thần linh tên Manaan điều khiển những sinh vật không phải là người. Hình dáng ngài được tả giống với vị đại thiên thần trên đỉnh Snaefell.

Thiên Thần ở Helvellyn
June, 1922

Có một đấng cao cả ngụ ở núi Helvellyn. Tôi thấy thiên thần trong tư thế đang ngồi, dạng người, rất đỗi to lớn. Khi cố gắng tìm hiểu ngài, tôi dùng nhiều cách mà không sao hiểu được tính chất và sự sống của thiên thần. Ngài bất động mà lại hàm ý sinh hoạt lớn lao. Ngài tĩnh lặng mà rõ rệt là đấng cai quản sự sống của ngọn núi. Ở mức tâm thức mà tôi có thể tiếp xúc với ngài, giới hạn địa lý không thành vấn đề, nên nhìn theo một cách thì hình thể ngài nằm ở bên trong ngọn núi hùng vĩ, mà nhìn theo cách khác thì đầu ngài tít trên cao đụng mây xanh.
Lằn túa hào quang sát người không giống như những cái tôi đã thấy; nó gồm nhiều lưỡi lửa, phát từ ngài ra mọi hướng và bung thật xa. Dù tôi không nắm được khoảng cách thực sự, tôi đoán ít nhất vào khoảng 400 - 500 m theo đủ các chiều kể từ thân hình ngài, cái thấy ngự đâu đó gần trung tâm và đỉnh dẫy núi Helvellyn; vượt bên ngoài các tia ấy hào quang của ngài bao trọn núi, cái sau có chu vi hơn 60 km. Khó mà gọi là hào quang phần vươn ra như vậy, mà đúng hơn là bầu ảnh hưởng trong đó ngài có thể tác động cấp kỳ.
Có vẻ như ngài ngồi chìm đắm trong thiền, bất động và không biểu lộ vẻ gì, ngoại trừ đôi mắt rực sáng uy lực, cái uy lực của tâm thức mở rộng cao độ và tỉnh thức sâu xa. Ngay cả ở khoảng xa này chừng 5 km, chúng gây nên một tác động rõ rệt trong tâm thức tôi. Đôi mắt bừng chói như hai hồ lửa song đôi. Tâm thức ngài trụ ở cõi vĩnh hằng, như dính sâu và không gì lay chuyển được như núi đá khổng lổ nơi ngài ngự. Thiên thần bất động, cứng chắc vững vàng như chính ngọn núi. Lực tinh thần từ ngài túa ra, bắn từ hào quang vào không trung. Bao quanh ngài có những thiên thần thấp hơn và các tinh linh không khí, cách di chuyển của chúng cho tôi cảm tưởng là một số đóng vai trò đưa tin, một số khác thi hành mệnh lệnh, tuy tôi không thấy có tin mang về hay chuyển đi, hay có lệnh từ vị Thần bất động mà sự sống kỳ diệu đang diễn ra quanh ngài.

Đỉnh Grand Salève, Thụy Sĩ
10 June, 1922

Ngự trên cao vượt khỏi những đỉnh núi oai nghi tôi thấy hình dạng một đại thiên thần, vị có thể gọi là thiên thần quốc gia của Thụy Sĩ. Dựa vào các hình tư tưởng bao quanh ngài và biến đổi hình dạng ngài ở những cảnh giới thấp, có vẻ như ngài giữ vai trò cai trị và hướng dẫn.
Hình tư tưởng của nước Thụy Sĩ (vẽ một vị thần với cái mộc đỏ nằm trên chữ thập trắng) được thiên thần làm linh hoạt, và tôi thấy ngài đứng theo hình tả ở điểm cao gấp ba lần chiều cao ngọn Dent du Midi. Thiên thần rực rỡ, hình dạng khổng lồ tuy tôi không có cách nào để so sánh cho chính xác, vào khoảng ít nhất là 7 m. Tia mắt nhân từ, bình lặng, an lành; quanh đầu ngài có những thiên thần nhỏ hơn không ngừng di động, tới lui chẳng ngớt, có lẽ chúng mang tin đến và đi tới các hạt, làng và thành phố.
Thiên thần khác với những vị tôi có dịp thấy trước đây, ở điểm làn rung động của ngài không xa cách với chúng ta cho lắm, và hoạt động trí não của ngài rõ ràng là tương tự với người; thêm vào đó, ngài lộ nét nhân từ đáng kể, hiểu sâu xa tâm tính con người, điều không gặp nơi những thiên thần đã mô tả khi trước. Lại nữa, không thấy có sinh hoạt trong hào quang và thân xác, hay lực tuôn tràn vốn là tính chất của các thiên thần đồng nội; ngược lại có sự điềm tĩnh tuyệt vời, sự lặng lẽ như chính ngọn núi chỉ trừ ở đôi mắt và quanh đầu, chỗ không ngừng túa ra rung động như các lưỡi lửa trăm sắc. Nhìn theo khía cạnh khác, ta có thể nói cả nước được gói trọn trong hào quang của thiên thần, cái trải dài xuống thấp và khi đi xuống dưới như vậy, nở lớn bao trùm hết vùng trách nhiệm của ngài .

Tinh Linh Quan Sát Tại Một Thánh Lễ Miền Quê
Harpenden 1922

 Trong khi thánh lễ cử hành tôi dần ý thức có nhiều tinh linh đủ loại đi tới, và bay lượn trên đám mây chiếu rạng trên ngay trong vòng những làn rung động của lễ. Những sinh vật nhỏ, cô tiên, tinh linh cây và vài mannikin trầm mình trong bầu không khí uy lực, với cử động liên tục và yêu kiều. Những sinh vật cao hơn và tiến hóa hơn đứng tương đối yên, ngó chừng và thu lấy năng lực phát ra, rồi thêm hết sức nhiều vào sự thanh khiết và đẹp đẽ của buổi lễ. Từ đầu tới cuối chúng dự lễ với người, và khi xong lần lần tản ra về nơi cư ngụ, về cây, đồng cỏ và bụi hoa, mỗi sinh vật mang theo sức mình một ít ân phước xuống từ buổi lễ.
Thêm vào đó dân cư thần tiên này còn có nhiều hàng thiên thần nghi lễ rõ rệt có liên hệ với thánh lễ.