CUỘC SỐNG NGOẠN MỤC CỦA TINH LINH - Phần 2

Hay, THẾ GIỚI THẦN TIÊN - Phần 2

The Kingdom of Fairies
Geoffrey Hodson - Thanh Thiên dịch

CHƯƠNG I                   Thiên Thần ở Thung Lũng Cotswold
CHƯƠNG  II                Thiên Tiên
CHƯƠNG III                Gnome và Thiên Thần
CHƯƠNG  IV               Tiên Nữ
CHƯƠNG  V                Công Việc của Tinh Linh
CHƯƠNG  VI               Brownies và Mannikin

 

Chương I
Thiên Thần ở Thung Lũng Cotswold
8 August, 1922

Thung lũng này dài chừng ba cây số và rộng một cây rưỡi, do một thiên thần trông coi, ngài tới đây để trợ lực sự tiến hóa của thung lũng. Dù ngài là thiên thần và do đó chú tâm nhiều hơn đến loài tinh linh và thảo mộc, ngài cũng lưu ý đến dân cư trong thung lũng và giúp họ khi nào làm được.
Buổi tối ngày hôm sau khi tới vùng, chúng tôi leo lên đồi ở phía cuối thung lũng, tới một điểm có thể ngồi nhìn xuống đồng ruộng, nhà cửa và rừng phong. Khi chúng tôi ngồi ngắm phong cảnh êm đềm và đẹp đẽ, vị thiên thần hiện ra, lượn trong không phía trên đỉnh ngọn cây trước mắt chúng tôi, ngài ngỏ lời chào mừng chúng tôi đến nơi này.
Mới thoạt trông ngài cao chừng hơn 3 m, hào quang từ thân túa ra mọi phía hơn 100 m đường bán kính. Sau khi nói chuyện với chúng tôi, ngài trải dài, kéo nó ra cho tới khi nó bao trùm trọn thung lũng, luôn cả dòng suối nhỏ chẩy qua đó;  rồi ngài đi từ từ xuống thung lũng, ôm ấp tất cả những vật gì sống trong đó, san sẻ cho mỗi cái một phần sức sống tuyệt diệu  của mình. Gương mặt ngài quý phái và xinh đẹp, mắt rực sáng chói ngời, coi giống hai trung tâm lực hơn là hai con mắt, vì nó không được dùng theo kiểu chúng ta là để biểu lộ tư tưởng và cảm xúc. Nét vui vẻ hiền từ thấy rõ trên mặt, qua nụ cười hơi hé miệng của ngài và cả trọn thân hình; ngài tuôn sự chào mừng lên chúng tôi, y như khi ngài rải năng lực thanh lọc và thúc đẩy lên trọn thung lũng.
Mầu sắc hào quang thật rực rỡ và biến đổi luôn luôn, khi chúng túa từ thân hình ở giữa ra ngoài bằng những làn sóng và xoáy lực. Mầu thay đổi từng phút một; bây giờ mầu chính có thể là xanh biếc đậm với đỏ, vàng ánh và xanh lục lướt trên mặt và xuyên qua đó, tạo nên những lượn sóng mầu chói sáng khi chúng lan ra bên ngoài thành dòng liên tục; bây giờ chúng thay đổi hoàn toàn, nền là mầu rose-du-Barry, có điểm mầu eau-de-Nile nhẹ, xanh da trời và vàng rất nhạt. Đôi lúc, khi hào quang có viền mầu hỏa hoàng, coi ngài giống như con chim khổng  lồ với mép cánh được mặt trời chiều rọi sáng. Lực liên tục phát ra khỏi đầu ngài, coi tựa như ánh sáng thấy ở cực ban đêm, tung lên cao trong không, và ở giữa đầu là một tâm ánh sáng, chỗ tâm thức của xác thân ngụ. Khi tôi đang tả như vậy thì ngài đột nhiên vụt lên trong không, tít mãi trên cao gần như biến mất hẳn. Dù ở tận trên cao như vậy, ngài vẫn giữ thung lũng trong tâm thức mình.
Tính chất ngài là sự phối hợp lạ lùng, giữa nét tự do sống động của hàng ngũ thiên thần không bị một ràng buộc nào, và những tình người như sự dịu dàng, ân cần với kẻ khác cùng tình thương. Tôi tin chắc rằng mọi sự sinh và sự tử trong thung lũng đều được ngài hay biết, và sự đau khổ trong cả hai trường hợp được ngài dùng hết sức mình làm vơi nhẹ đi, vì tôi thấy hình quá khứ trong hào quang ngài, cho biết ngài mang trong vòng hào quang rực rỡ của mình linh hồn những ai vừa qua đời, che chở họ và hướng dẫn họ tới nơi an lành; tôi thấy ngài trông chừng trẻ con đang chơi, người già đi chậm rãi; quả đúng ngài là thiên thần bản mệnh cho thung lũng, và được sống trong sự chăm chút của ngài quả là hạnh phúc.
Thế giới tinh linh tuân lệnh ngài, và tôi thấy chú lùn, thần cây và tiên nữ thấp đáp lại ý ngài khi quyền năng ngài chạm chúng; elf và brownie đột nhiên thấy hớn hở tuy không biết rõ nguồn gốc của cảm giác ấy, nhưng chúng nhận biết nó là một phần thường trực của đời; bầy tiên nữ cảm được sự hăng hái và hoan lạc khi sức sống rạng rỡ của ngài phủ lên chúng. Hình như trọn cả thiên nhiên được thúc đẩy mạnh hơn do sự hiện diện của ngài ở đây.
Ảnh hưởng của ngài cho ra một đặc tính rõ nét, một tính chất địa phương, một bầu không khí đặc biệt, được cảm nhận rõ rệt trong trọn thung lũng, cho ra một nét quyến rũ gần như làm mê hồn người; chắc chắn nó phải ảnh hưởng bất cứ ai sống lâu ở đây, đặc biệt người được sinh ra và sống trong vòng hào quang thường có của ngài, và do vậy phải có lần họ cảm được tinh thần của thiên thần trên người họ.

Một Nghi Lễ Thiên Thần
Grand Salève, Thụy Sĩ
Chiều, 4 June, 1925

Dãy núi Mont Blanc hiển nhiên là một trung tâm huyền bí. Ta thấy những lực rất đỗi hùng mạnh tụ hội ở trong và chung quanh đây chiều nay. Chúng có dạng những lưỡi lửa phóng ra bên ngoài ngọn núi, bay dọc theo sườn núi và bắn tung cao vào không gian. Trên chính đỉnh núi Mont Blanc ở giữa chúng tôi thấy một dòng năng lực liên tục, tựa như ánh sáng phóng xạ nhiều lần mạnh hơn, những chớp rực rỡ lướt xuyên qua tới lui trong đó, khi các thiên thần bay đi lại ở giữa cái biểu lộ năng lực sống động này.
Một buổi lễ huyền bí được cử hành ở trên và quanh đỉnh núi, và có vẻ như nó đã khơi dậy năng lực cùng việc tề tựu của hàng ngũ thiên thần. Ở giữa là một nhóm đại thiên thần, tất cả đều cầm gươm, cử động có vẻ hơi chậm, với nét rõ ràng, có trật tự, và dường như các ngài đang theo một nghi thức đã biết. Nhiều đường năng lực lâu lâu túa lên trong không giống như hỏa tiễn khổng lồ, trong khi cùng khắp chung quanh, trên sườn của dẫy núi ở giữa là một nhóm sơn thần man dại và dũng mãnh. Tôi nghĩ đây phải là những sinh vật đã cho Wagner hứng khởi khi tạo nên các vai Valkyries  (trong vở nhạc kịch Die Walkure, soạn cách nơi này chỉ chừng 1,5 km), vì tôi thấy giữa bọn chúng và bầy Valkyries của ông giống nhau nhiều. Chúng sà xuống đống tuyết và băng sơn dưới thấp, lướt qua sườn núi mau lẹ; tiếng kêu hú của bọn Valkyries dễ dàng nhận ra.
Khi tôi mô tả sự việc, mức độ hoạt động trên đỉnh tăng dần, và ngọn núi bắt đầu giống như núi lửa đang phun mà không có khói. Tôi thấy tâm thức mình được lan dài mãi ra tận không gian bên ngoài địa cầu, và thấy rằng nhiều hiện tượng giống cái này đang xẩy ra ở các nơi trong thái dương hệ. Lực bắt đầu xẹt tới lui giữa những điểm ấy, và năng lực tràn xuống trái đất, nhóm Valkyries hoạt động càng lúc càng man dại hơn, làm như hóa cuồng vì năng lực dữ dội của buổi lễ; chúng thu lấy năng lực, mang tới nơi xa và rải xuống các vùng. Tôi bắt đầu thấy nhiều vòng chồng lên nhau, những cấp bậc thiên thần kế tiếp nhau, nhiều nhóm đại thiên thần đứng chói lòa trong ánh sáng chóa mắt.
Bây giờ có âm thanh thêm vào với hình ảnh; tôi nghe tiếng nhạc, nghiêm nghị và oai nghi, như của chính những đại thiên thần âm nhạc; nó giống như nhạc từ các tầng trời, vang ra ngoài thăm thẳm, hát những khúc hát vũ trụ mênh mang.
Nói về trái đất, trọn hiện tượng dường như tụ ở Mont Blanc; ngay cả những vòng thiên thần có vẻ như chồng chất vòng này lên vòng kia, cao thẳng đứng trên đỉnh. Một đường kinh vì vậy thành hình và qua đó năng lực trái đất phóng lên và năng lực đáp lại tuôn xuống, coi tựa cột lửa có chân dựa trên dẫy núi, tắm trọn rặng núi và vùng chung quanh trong ánh sáng tuyệt trần. Lực chẩy sâu vào lòng đất, và chắc chắn tiếp xúc với tâm linh trái đất; hình như tâm linh của những hành tinh tụ họp với nhau nhờ vào thế giới thiên thần.
Lực dường như có mầu tận cõi thượng trí và có lẽ còn xa hơn nữa, trong khi nó cũng phát ra kết quả khổng lồ ở cõi tình cảm. Những rung động nẩy sinh ở cõi tình cảm thấy rõ ràng ở chỗ này, cách xa nơi ấy 40 km; chúng tràn đi như những lượn sóng, trôi ngang qua và rồi biến mất ngoài xa. Tôi có thể thấy chúng vẫn đang dần xuống thấp vùng thung lũng sông Rhône. Ở cõi trí ảnh hưởng còn xa hơn nữa, dù có vẻ ngược lại là không mạnh bằng mà tụ ở tâm nhiều hơn. Làn lực tuôn xuống không còn vững chắc nữa mà giống như lửa lỏng, trắng và xanh bạc.
Bây giờ dòng suối đã mở rộng đáng kể, và hẳn phải gồm nguyên dãy núi Mont Blanc. Vô số thiên thần bao quanh hàng hàng lớp lớp, và thường xuyên có sự đi ra đi vào, đi tới đi lui; mọi vật sống, kể cả ngọn núi, được linh hoạt hẳn lên một cách tuyệt vời, trong khi nhiều thiên thần vui sướng hóa ngất ngây. Chia sẻ cái tâm thức của một thiên thần lúc bay ngang qua, tôi thấy mình rung lên với một cảm giác có năng lực tràn trề, đầy quyền uy bất khả kháng, điều mà tôi phải mau lẹ mang đi trong không đến chỗ của tôi đâu đó trên địa cầu.
Cuối cùng buổi lễ dường như tới hồi kết thúc, con số thiên thần đến dự bớt lần, chúng tản mát, bay đi mau lẹ về đủ mọi hướng, mỗi thiên thần chiếu rực với sức mạnh vừa nhận, cho tới khi chỉ còn lại những vị hành lễ ở giữa, cảm tưởng chung về sự sống động như điện bắt đầu phai mờ, dù trên thực tế ánh sáng rực rỡ trên đỉnh vẫn không giảm.
Nếu phải kết luận từ một kinh nghiệm riêng rẽ thuộc loại này, thì nó phải là thiên thần dùng nghi lễ như là phương tiện để gợi dậy và phân phát năng lực, và chúng đóng vai trò quan trọng trong việc liên lạc liên hành tinh.

CHƯƠNG  II
Thiên Tiên

Tinh Linh của Gió và Hoa
Đồi Coneyhurst, Hurtwood, gần Ewhurst
17 April, 1926

Chúng tôi đang ngồi ngoài bìa một khu rừng, gồm những cây đường tùng và cây thông rất già lão mọc đầy ngọn đồi này, từ sườn phía nam chúng tôi có thể thấy một khoảng rộng lớn cánh đồng quê xinh đẹp, trải dài đến tận phía nam Downs.
Một bầu không khí vui tươi hồn nhiên và hân hoan, tràn ngập mọi hoạt động của nhiều sinh vật thuộc giới tiên nữ thấy trong vùng này.
Gió tây nam thổi mạnh, trong luồng gió thấy thiên tiên - sylph đang nhởn nhơ, bước chân của chúng sải dài mau lẹ, thẳng hàng theo với gió cho tới khi chúng mất hút ngoài xa; hay vặn người, quay vòng, và đột ngột tung người lên rồi kế tiếp là chúi nhào xuống đứt thở, bất chợt ngưng ngay trên đầu ngọn cây, rồi lại được nối tiếp bằng cái vọt mình thần tốc cả ngàn thước vào không khí. Đó đây, các nhóm tụ lại nhẩy múa trong không điên cuồng, với hào quang phất phới ra sau như thể bị gió thổi, mặt chúng hóa man dại vì sôi động; say sưa vì hoan lạc, chúng quay thành vòng đột ngột tụ lại rồi cũng thốt nhiên tan hàng, ngất ngây vì năng lực và sức sống mà không khí được tẩm đầy trong sáng mùa xuân tuyệt vời này.
Trong những điều kiện ấy, chúng thường mất đi mọi nét giống người, trở thành những khối quay cuồng đầy lực và sinh lực, trong đó đột nhiên nẩy sinh hình giống đôi cánh thướt tha, những đường cong chẩy dài, coi tựa đôi tay vung vẩy, và tóc bay loạn trong gió; rồi thì hai con mắt rực lửa xuất hiện, và gương mặt với vẻ đẹp thoát trần mang nét biểu lộ không thể nào có được ở người, hòa lẫn sự ngất ngây, hoan lạc cuồng dại và quyền năng mãnh liệt, cương cường. Bỗng một thiên tiên ngưng lại, bay thật gần tới nỗi như anh làm choán ngập bầu trời với hào quang của anh, và chế ngự cả tầm nhìn bằng sự hiện diện sống động của anh; trong nháy mắt sinh vật đi mất, biến vào khoảng xa tắp, lướt hàng ngàn thước chỉ trong một giây đồng hồ, hình như thiên tiên bị lôi cuốn bởi một năng lực và có chứa một sức mạnh mà anh làm chủ được rất ít; làm như anh đã uống quá say sức sống trong không - sức của gió thổi qua vùng Weald làm cành thông rì rào, thủ thỉ êm ái, giống lạ lùng tiếng sóng ì ầm ngoài khơi - tới nỗi không thể đứng yên một chỗ.
Tiếp xúc với tâm thức thiên tiên trong điều kiện này, gợi ý cho tôi đến tình trạng năng lực cô đọng thấy trong hạt nguyên tử, nó cho cảm giác nén chặt, gần muốn vỡ tung của năng lực vô kể với sức mạnh thật đáng sợ, nhưng lại vô hại vì bị giới hạn trong đường kinh cho lực tuôn tràn. Tôi gần muốn nghẹt thở vì sự khác biệt giữa kinh nghiệm sống tràn đầy này với đời sống con người trong xác thịt, coi thật giới hạn và chán ngán trong thể xác nặng nề và không nhậy cảm này. Ngay cả ở cõi trí, tôi cũng không thể nào chạy đua tranh lại một thiên tiên, vì khi tôi mới nẩy ý bắt đầu, anh hẳn đã chạy tới mức cuối. Vật chất làm nên thân xác anh rất sống động và đầy năng lực cùng sự chuyển vận, có vẻ như khi chúng ta cần phải có ý chí để cử động, với sinh vật như anh, kẻ vừa mới rồi làm đầy và tràn ngập không khí quanh chúng tôi với sự hiện diện sống động của mình, điều ngược lại mới đúng cho anh, vì gần như không thể nào anh đứng yên một chỗ được.
Nhưng trong khi tôi đang cố gắng tả như vậy, một thiên thần tuyệt đẹp lượn nhẹ, gần như bất động, cách mặt đất chừng 700 m, tôi bắt buộc phải kết luận rằng câu này chỉ áp dụng cho một vài nhóm thiên tiên mà thôi. Người cao chừng 5 - 7 m, ngài đẫm mình trong một ánh sáng trắng đặc lấp lánh, dường như liên tiếp rải xuyên qua ngài và trên ngài. Nhìn kỹ, hình như năng lực phát sinh từ thân hình bên trong - có dạng người, và chói lòa ánh sáng trắng - chẩy dọc theo chiều dài và tiếp tục lan ra ngoài bằng lượn sóng cho tới bìa hào quang. Mầu chính liên tục thay đổi, giống như mầu một viên ngọc mã não - opal chiếu trong ánh mặt trời dù sắc sảo vạn lần hơn: lúc xanh, lúc hồng, lúc xanh trái táo, lướt xuyên qua và trộn khắp hào quang, trong khi cái đầu và gương mặt đẹp đẽ giữ y mầu hồng thanh nhẹ. Đôi tay hơi dang hai bên sườn; trong tư thế ấy, với năng lực tràn qua ngài từ mọi phương hướng và túa ra một khoảng cách 10 - 20 m từ thân hình ở trung tâm, vị đại thiên thần đứng cao giữa trời. Hình như ngài đã thuộc về hàng thiên tiên trước đây, và đã tiến hóa vượt qua mức đó. Chung quanh, trên và dưới ngài những tinh linh nhỏ hơn đang chơi đùa, làm thế đứng của ngài lại càng đối chọi với sự di chuyển như điện xẹt, cách vụt mình trong không của chúng.
Tôi lại thấy rõ đẳng cấp của ngài, vì có vẻ như ngài là thiên thần tiến xa, về một phương diện nào dó chịu trách nhiệm về sự sống và sự tiến hóa của tinh linh nhỏ hơn. Dù tâm thức hết sức chăm chú hướng về cõi cao, ngài cảm nhận được cố gắng của tôi nhằm tiếp xúc với ngài, và trả lời bằng cách làm tràn ngập tôi với năng lực mà tôi có thể nhận được. Kết quả rất đáng nói; thể trí và tình cảm của tôi - tạm thời rực sáng - có khuynh hướng xếp đặt chung theo cách từa tựa như của ngài; lực của ngài xuống từ cõi thượng trí và đầy ngập bên trong hai thể của tôi, truyền sức mạnh sang cho chúng tôi rồi lan dần ra ngoài bìa; ngay cả trong thể xác cũng có sự rung động mạnh mẽ.
Thiên thần là tâm sinh hoạt đáng kể của thiên tiên, chúng liên tiếp kéo đến gần ngài, làm như giữa ngài và bọn chúng có chuyện liên lạc, sau đó chúng bay đi về những hoạt động riêng của mình. Vài kẻ là thiên thần liên hệ đến thảo mộc. Dù tâm thức ngài linh hoạt ở cõi hạ trí, hình thể ngài thấy được ở cõi tình cảm, và đa số đến với ngài ở cõi ấy. Chúng là thiên thần cây cỏ với mầu sắc rực rỡ, nhiều kẻ lộ trong hào quang hình thể và mầu sắc của cây hay khu rừng mà chúng có trách nhiệm; một vài bọn thấy rõ có liên hệ với cây ăn trái đang mùa hoa lúc này, và hào quang của chúng rực mầu của vườn cây hay cây đang rộ hoa. Hiển nhiên sự liên kết của tinh linh với cây đã in hình cây vào hào quang sinh vật, hoặc bằng cách phản chiếu hay bằng sự đồng hóa mạnh mẽ của trí tuệ của tinh linh với cây; như vậy chúng có thể mang công việc của mình trình lên thượng cấp để ngài có thể xem xét công tác bằng lối ấy, và sửa chữa cũng như ảnh hưởng nó trực tiếp.
Bạn đọc có thể gặp vài khó khăn, khi tưởng tượng thiên thần có hào quang với hình dạng và mầu sắc của, thí dụ, cây táo đang rộ hoa. Theo chân một tinh linh về chỗ làm việc của nó, tôi thấy nó biến vào trong cây, dùng hào quang bao trùm khắp cây. Nó ở trong vị thế ấy một khoảng lâu, ảnh hưởng sự phát triển tâm thức cây cũng như của những tinh linh nhỏ hơn, bằng cách tuôn rải luồng  sinh lực sống động của nó. Kết quả của cách làm việc này là sự tác động liên tục trên lực sống của cây, dọc theo những dòng cố định của thân, cành lớn, cành nhỏ, lá cây, mang theo hình cây chúng phải chăm sóc lên không trung cùng với mình; khi chúng bay lượn vẫn trong bọn với nhau, kẻ trên người dưới một chút, sinh ra những lượn sóng cây hoa trắng như tuyết, rồi như có dấu hiệu nào đó, cả bọn túa ra và bay thẳng vào hào quang của thiên thần, mang theo mình bầu không khí đẹp đẽ, vui tươi và sự tươi mát như mùa xuân của thiên nhiên vừa tỉnh giấc. Thấy như ngài xem xét kỹ và ban phép lành; đôi khi ngài cuốn bao trùm một tinh linh, hay một nhóm, sâu hơn vào hào quang mình và giữ chúng ở đó, một lát sau thả ra. Chúng coi giống như một bầy chim kỳ lạ khi bay về chỗ công việc của mình.
Lối hoạt động vậy ảnh hưởng ngài theo một cách nào đó, và hào quang ngài tăng dần kích thước cùng vẻ sáng khi công việc nhiều thêm. Những dòng sáng chẩy từ ngài xuống mặt đất, khi tinh linh mang phước lành ngài ban bay đi trong không, và trọn hiện tượng bắt đầu vượt quá khả năng mô tả yếu kém của tôi, cũng như quá khả năng thông hiểu của trí mình.
Có lẽ ta đã vật chất hóa phần nào trọn quan niệm, nhưng tôi có thể ví nó với buổi họp kế hoạch kinh doanh vĩ đại, vị chủ tịch kiểm soát và hướng dẫn hoạt động của nó qua nhiều nhân viên, chính ông vẫn ở trong văn phòng riêng của mình. Không giống như kinh doanh đương thời, trọn khối công việc được thấu nhập bởi bầu không khí rất đỗi hỉ lạc, có sự hợp tác hồn nhiên trọn vẹn, và sự nghiễm nhiên chấp nhận vị lãnh đạo cùng vâng theo ý ngài.
Từ đỉnh ngọn đồi này chúng tôi nhìn xuốn vùng Weald của Surrey và Sussex, trải dài về hướng tây, nam và đông vào nơi gọi là ‘Vườn hoa của Anh quốc’. Kinh nghiệm vừa tả đã làm tôi ý thức điểm hợp lý của tên, và cũng cho tôi hiểu biết sâu rộng hơn về công việc của hàng ngũ thiên thần, trong việc hoàn thành chương trình của Thượng Đế.

CHƯƠNG III
Gnome và Thiên Thần
Letchworth, 3 - 1, 1925

Trong sáu tháng qua, tôi để ý thấy một chú lùn trong gia đình gnome, có ngã thức nhiều hơn các bạn, đã dần dần bị bọn tôi hấp dẫn. Vào mùa hè chú thường đi ra khi chúng tôi từ nhà ra vườn, chú chạy vào vườn cây ngang bồn cỏ, và làm tôi chú ý bởi những lóe sáng ether. Hồi đó tôi không để ý nhiều tới chú, nhưng tới mùa đông chú bắt đầu vào nhà. Buổi tối khi chúng tôi ngồi quanh lò sưởi, thường thấy chú chơi đâu đó trong phòng, đi ra vào ngang qua cửa sổ, và ngắm chúng tôi tò mò y như ngắm một con sóc hay con chim nuôi trong nhà.
Chú cao đúng nửa thước. Tôi đo chú được vì đầu chú đụng tới vệt khắc chạm trổ trên chân cây dương cầm. Nước da rất đen; và thân hình xốp như bông đá, đúng hơn như đất đóng băng cứng ngắc giờ được tan. Trong vườn chú chạy tung tăng đây đó không y phục, dù đôi khi chú làm thân hình có mầu xanh mờ. Nhưng tối nay tôi thấy chú cố gắng khoác cho mình một bộ quần áo mà lạ lùng thay, kết quả có được không phải bằng cách dùng thêm vật chất để tạo y phục, mà bằng cách biến đổi về mặt thân hình, ngoại trừ cái cổ áo mầu trắng.
Rõ ràng cổ áo là phần thêm vào; hơn nữa, đó là phần chú coi hết sức quan trọng, vì khi nó mờ đi, mà nó mờ đi luôn, chú sửa lại ngay khi thấy nó biến mất; thực vậy, chú không làm nó biến mất hẳn, và việc giữ cho cổ áo còn hoài chiếm nhiều giờ của chú lúc này. Đường nét và bâu áo với áo choàng có thêm cả khuy, bằng chất liệu giống như da chú và chú giữ được nó lâu hơn. Với chiếc quần chú không thành công mấy, và theo tôi thấy chú nghĩ tới việc chế ra giầy.
Cổ và cánh tay ốm, quá dài so với con mắt của chúng ta, đầu và tứ chi coi lỏng lẻo, xốp, làm tôi nghĩ tới con búp bê nhồi bông; nhưng chú có thể dùng ý chí làm nó cứng chắc như khi nhẩy múa, và nhẩy múa là cách để chú tỏ sự vui mừng khi chúng tôi về nhà sau khi đi vắng mười ngày. Cử động của điệu vũ gồm việc lắc lư thân hình bên này sang bên kia, chân chụm lại với nhau và chúi về phía trước, mới đầu sang phải rồi sang trái, tay giơ lên đầu cùng một lúc. Những cử động ấy không khiến chú thay đổi vị trí trong phòng, dù nó quay tròn chú.
Gương mặt không đẹp chút nào, gần như đen, trán dài và rất trượt ra sau. Không có lông mày, hố mắt rất nông, đôi mắt đen giống như khuy áo, má có vẻ hõm, mũi dài và nhọn, môi rộng và cùng với cái biểu lộ trong mắt cho chú có nụ cười thích thú. Cằm nhô và không có nét nhất định mà thay đổi theo cái biểu lộ của gương mặt. Tay ở cuối nắm chặt lại, chân dài chừng hai tấc, nhọn ở đầu.
Tả như vậy cho chú nhỏ vẻ xấu xí và khờ khạo, nhưng cái tinh thần nhỏ bé ngụ trong thân xác ấy thật sáng rỡ. Dù chúng không thể có cái gọi là lòng yêu mến thực sự, chú thấy tự nhiên với chúng tôi tới mức quên được nỗi lo lắng khi vào khung cảnh xa lạ là bên trong ngôi nhà. Chú đủ sức nhận biết vợ tôi và tôi riêng với nhau, và cũng riêng với những người khác, và khi ở gần chúng tôi chú lùn tỏ ra vui thích rõ rệt. Chú không nhậy cảm với làn rung động của hào quang thể trí và tình cảm như những chú lùn khác, chỉ cảm thấy hài lòng với những làn rung động mà chú có thể đáp ứng được. Sau một lúc chú cảm nhận được một kích thích thật sự, và có cái gì đó chẩy qua thân hình nhỏ bé của chú, tương ứng với thế giới cứng đặc của chúng ta như là một luồng sáng ấm. Khi luồng này lớn tới mức nào đó chú mất dạng một phần và trôi ra vườn, làm như trong trạng thái thanh nhẹ ấy chú bị thu hút về cõi của chú. Ngay khi ảnh hưởng này tan đi, chừng vài phút sau, chú trở lại và thản nhiên bước vào phòng.
Nhìn vào trí chú lùn, bằng cách khai triển khả năng mà nhờ đó tôi nhìn thấy được hình chú, tôi không thấy có chút ký ức nào về kinh nghiệm này, không có chút gì ngoại trừ cảm nhận mơ hồ là ở đây dễ chịu. Có một nhận thức do bản năng là những đồ đạc trong phòng quen thuộc với chú. Chú không nhìn đồ vật như ta nhìn. Khi đứng trên mặt đất tinh linh thấy chân bàn ghế và chân người, chú lùn hiểu được về những phần trên cao dính với các chân này. Tôi không biết được làm sao chú nhận ra chúng tôi, dù tinh linh lộ ý rõ rệt là ưa thích bọn tôi, và vào mùa hè thường hiện ngay khi chúng tôi bước ra khỏi nhà. Khi tôi viết dòng này thì tinh linh đang đứng ngay đằng sau tôi, và trong trí không có sự hiểu biết nào là tôi còn phần cao bên trên hông; thực vậy cái ý niệm của chú bây giờ về tôi là tôi như hai ống quần biết linh hoạt. Ý niệm ấy làm chú thỏa mãn hoàn toàn. Nhưng nếu thấy tôi từ xa, chú thấy được cao hơn chút, có lẽ từ vai và trên nữa là một đám sương sáng. Chú thấy và cảm được thể sinh lực, thích đứng trong đó để tắm trong làn ether.

20 March, 1925

Ba tháng sau lại có thêm cơ hội để nghiên cứu về chú lùn. Tinh linh thường gặp trong nhà và ngoài vườn, nhưng chúng tôi không để ý nhiều tới sinh vật ngoại trừ lời chào hỏi và cái liếc mắt về phía chú lùn. Quan sát đời sống chú kỹ hơn, tôi thấy gnome là đối tượng cho sự thí nghiệm đặc biệt của một thiên thần, vị có vẻ giữ chức giám hộ đời sống tinh linh trong vườn hoa và vườn cây ăn trái bao quanh, có mấy ngàn cây con đang trồng. Thấy rõ là vị thiên thần này rất lưu tâm đến công việc thúc đẩy sự tiến hóa của tinh linh dưới ngài, và thái độ của ngài rất giống như của người nuôi thú hay người làm vườn, chọn con vật và cây này hay kia để chăm sóc đặc biệt. Ngài thấy chú lùn đã thân với bọn tôi và quyết định lợi dụng việc ấy.
Một kết quả của việc này là tính bắt chước tự nhiên của chú gnome gia tăng đáng kể. Bây giờ chú có cổ áo trắng, nằm thường trực ở cổ, và một áo khoác sậm mầu, chân mất vẻ khẳng khiu và bắt đầu giống hai ống quần. Tôi lại cũng để ý thấy rằng những sự thay đổi này không phải được sinh theo cách thông thường của tinh linh, tức thêm quần áo, mà thực ra là sự thay đổi thể sinh lực của chú lùn. Cái đáng kể nhất là sự thay đổi ở gương mặt, nhạt mầu rõ ràng và tròn trịa hơn. Mới đầu tôi tưởng một tinh linh khác hẳn đã vô phòng, nhưng thật ra đó chính là người bạn cũ, vì tính gnome và hình dạng được khám phá ngay. Óc thông minh cao hơn, và tính tự chủ cũng tăng rất trội, vì chú leo lên đầu gối tôi, có hơi sợ hãi chút ít lộ trên nét mặt. Giờ tôi thấy sinh vật làm vậy không phải theo ý riêng, mà do sự thúc đẩy mạnh mẽ, gần như là thôi miên, của thiên thần đang đứng nhìn.
Tâm trí tôi không nhận biết cái gì xẩy đến cho thân mình khi sinh vật leo lên đầu gối tôi, vì tôi đang ráng liên lạc với trí của thiên thần; tôi thấy rung rung, một cảm giác lạnh rõ rệt và vật gì rất nhẹ nằm trên đầu gối mình làm tôi nhìn xuống, thì ra chú nhỏ. Tinh linh không thấy được thiên thần vì không nhìn được ở cõi tình cảm, nhưng nhận biết một ảnh hưởng quen thuộc, và lập tức vâng lời ngay sự thúc đẩy đi kèm với ảnh hưởng đó.
Thấy ngay là gnome trong cảnh sống thông thường hầu như chỉ có tâm thức nhóm, và trọn hoạt động của chúng, nói chung là cả đời chúng, là biểu lộ của những thúc đẩy do bản năng, ảnh hưởng nguyên cả nhóm. Chỉ khi óc chúng bị vật bên ngoài hấp dẫn thực mạnh, và tâm thức rút vào thể sinh lực, chừng ấy mới có điều tương tự như ý thức về cái tôi, mà nó cũng chỉ thoáng qua. Sự tiến hóa đối với chúng được đánh dấu bằng sự gia tăng từ từ khả năng ý thức về ngoại cảnh, bằng thời gian chúng duy trì được ý thức ấy, và bằng sự gia tăng mức độ ý thức về cái tôi.
Nhờ vị thiên thần trợ lực, tôi thấy sẽ tới lúc ý thức ấy trở nên tương đối có luôn, và chú lùn sẽ rời nhóm của mình quên tuốt mọi chuyện, và bắt đầu làm việc hay chơi đùa tự mình. Điều ấy giải thích sự kiện ghi nhận trong quyển trước của tôi về tinh linh  (Cuộc Sống Ngoạn Mục của Tinh Linh), là gnome thường thấy sống đơn độc, cũng như có khi sống thành bầy. Thiên thần nói rằng tinh linh có thể cá nhân hóa từ mức gnome thẳng sang hàng ngũ thiên tiên, dù đó không phải là cách hay làm, thường thì chúng vào loài tinh linh trung cấp một thời gian. Khó mà tưởng tượng là gnome đen đủi và cục mịch thành tiên nữ, nhưng thiên thần nói chuyện ấy không lạ, và khi thời gian thay đổi tới gần, gnome càng lúc càng để ý nhiều tới cây cỏ, hoa trái, mất từ từ nét đất và ái tính với đất mà mang lấy đặc tính của tiên nữ.
Tôi thích thú nhớ lại mình đã thắc mắc thế nào khi thấy gnome có liên hệ với cây mà mang cánh; nhưng có vẻ - và thiên thần xác nhận vậy - đó là giai đoạn chuyển tiếp. Ngài giải thích rằng, sau khi trải qua những chặng biến hình như thế, gnome nhập vào một trong những nhóm tiên nữ đông đảo, như các nhóm có liên hệ với cây lớn hay cây hoa lớn, ít khi và có lẽ không bao giờ chú bắt đầu chu kỳ tiến hóa mới trong không, bằng cách làm tiên nữ của những loài hoa nhỏ như đã được chụp hình; về mặt tiến hóa chú hơn hẳn loại sau.
Trong trường hợp riêng đang quan sát này, ý chính thường là mang gnome đến gần và tiếp xúc liên tục với người càng nhiều càng hay; vì thiên thần nói thêm: ‘Mang chú vào bầu không khí có những lực huyền bí tác động’. Nói cách khác, ngài lợi dụng sự việc là chúng tôi đang học hỏi MTTL, và sự liên kết mọi hội viên của hội có với Thiên Đoàn đang chăm sóc thế giới. Ngài nói rằng sự thay đổi đã có chừng mười bốn tháng, khi ngài khởi sự thí nghiệm hồi đầu năm ngoái. Ngài cũng khiền chú lùn tiếp xúc rất thường với người làm vườn ở đây, và tôi thấy chú theo ông đây đó, chơi đùa gần ông khi ông làm việc. Dù cả chuyện có vẻ ngộ nghĩnh, thiên thần coi nó thật quan trọng.
Chính thiên thần thì là nhân vật rất phóng khoáng, dù đầy tình thân, ngài có khuynh hướng coi tôi như là phần hữu ích trong thí nghiệm của mình, và là một vật phụ chuyện ấy hơn là một người; theo quan điểm của ngài, trọn đời sống tinh linh trong vườn và vườn cây ăn trái, được ảnh hưởng đáng kể bởi sự rung động của hội viên trong nhà; xem ra các buổi tham thiền của chúng tôi và buổi trị bệnh đã có ảnh hưởng lớn trên vườn hoa, giúp cho sự tiến hóa của tinh linh. Ấy là tại sao thiên thần để ý tới chúng tôi, và tìm cách sử dụng tối đa sự hiện diện của bọn tôi nơi này. Ngài hiền từ, nhưng dửng dưng một cách lạ lùng, gần như chỉ quan tâm đến việc làm của mình trong thiên nhiên.
Nguyên khu đất rộng chừng ba mẫu này nằm trong bầu ảnh hưởng của ngài, dù không nằm trong phần hào quang đích thực. Phương pháp của ngài làm tôi nhớ đến phương pháp của thiên thần khu rừng ở Nateby, tả trong chuyện Cuộc Sống Ngoạn Mục của Tinh Linh. Ngài làm việc phần chính từ một vị trí trung ương trong bầu không khí phía trên trang trại, ở cao độ tiện cho ngài giữ trọn vùng trong vòng ảnh hưởng của mình. Ngài cô lập nó ở cõi trí, tình cảm và sinh lực, bằng cách bao nó trong những lớp vỏ được tạo bằng quyền năng tư tưởng. Ngài dùng hai cách: thứ nhất là tuôn một làn ảnh hưởng chung tràn mau từ Chân nhân của ngài xuống trọn vùng, tạo điều kiện cho thiên thần tương tự như nhà kính tạo điều kiện cho cây; ngài cũng tiếp xúc với những nguồn năng lực tinh thần cao nữa, biến mình thành con kinh chuyển nó đến những loài thấp hơn. Phương pháp khác là nới rộng hào quang của ngài, cho ra những lực tác động lên các phần khác nhau của khu vườn và các nhóm tinh linh khác biệt. Ngài hết sức khéo léo trong việc này, dùng hào quang của mình thành thạo như chúng ta sử dụng tay chân; ngài bao trùm một mẫu đất từng lúc một thật dễ dàng, làm tăng vẻ chói lọi và mức đậm đặc của hào quang, ảnh hưởng trọn mẫu đất hay một phần của nó theo ý mình.
Dù ngài đang làm việc ở những cõi sắc tướng, tâm thức ngài nới rộng đến những cõi vô sắc tướng, ở đó Chân nhân ngài có mức tiến hóa thật đáng kể. Ngài linh hoạt trong cả ba cõi xuống tới cảnh ether thực dễ dàng, cùng lúc đó vẫn tiếp tục hoạt động ở cõi Chân nhân, và giữ liên lạc với những bạn hữu cùng mức độ hay với những bậc cao hơn. Ngài dùng các thể của mình rất tự do theo ý, tới mức không sao sự tuôn tràn của năng lực và tâm thức giữa Chân nhân và phàm nhân, có thể bị phá vỡ hay ngay cả bị nguy hiểm, về khía cạnh này ngài khác xa so với nhân loại cũng đang nỗ lực tương tự trong cõi của mình.
Sự ngăn trở lớn lao do việc mang thể xác, và việc bị cầm tù phần nào trong thể ấy lộ rõ khi so sánh, và sự kiện thể xác bó buộc cùng giam hãm quá đỗi được nhận biết ngay thực đau lòng. Trong tâm thức của thiên thần tôi không thấy gì tương ứng với sự đau đớn, thất vọng, chán nản, sợ hãi, giận hờn hay tham muốn; cũng không có dấu hiệu nào chỉ sự căng thẳng, hay cố gắng hết sức như chúng ta phải có để vượt qua tính trì trệ của những cõi thấp, hay ngài không phải cưỡng lại những đòi hỏi của bản tính thấp trong người, mà ai có nguyện vọng tinh thần đều gặp phải.
Thể trí của ngài dường như biểu lộ rõ nhất một sự ưa thích sâu đậm mang tính cách trí tuệ trong việc làm, cho ra mầu vàng rực rỡ, đó là mầu chính trong hào quang ngài; tình thương với những sinh vật thuộc quyền tỏ ra bằng mầu hồng, thái độ lưu tâm đầy thiện cảm với sự tiến bộ và thích ứng của chúng lộ qua mầu xanh trái táo có lóe ngọc bích, trong hào quang thường rực sáng bằng những làn sóng trắng mãnh liệt, sống động, tượng trưng sự nhiệt tâm của lòng ngài, và được khích động, gợi nên bởi những lực cao hơn mà ngài là con kinh trung gian.
Ước lượng kích thước của ngài không phải là việc dễ, vì nó thay đổi rất nhiều; khi tôi mới gặp ngài tối nay, ngài hạ thấp xuống tới mức chỉ chiếm một phần trong phòng, khi ấy ngài cao chừng 2,7 m nếu chỉ kể hình dáng thực sự, nhưng bây giờ khi ngài trở về chỗ làm sau khi tuôn ra năng lực Chân nhân, và tạm thời giữ nó trong chốc lát, ngài có vẻ rộng lớn hơn, cao khoảng 4 m, và hào quang trải rộng gần 20 m ở cõi tình cảm và 40 m ở cõi trí; chúng có dạng gần giống hình trái soan, nhưng không có đường bìa vẽ rõ, tuy nhiên ngài có thể nới rộng chúng ba hay bốn lần hơn giới hạn bình thường, hay làm cho trọn những lực trong đó tuôn ra ngoài hướng xuống dưới, tác động lên vùng thuộc trách nhiệm của ngài.
Có vẻ như ngài hạ một cách tự nhiên xuống một điểm cách mặt đất chừng 35 tới 50 m. Do việc quan sát gần gũi này, tôi thấy ngài thực sự lưu tâm đến chúng tôi theo cách thiên thần hay có mà không ràng buộc; vì ngài biểu lộ rõ ràng cảm tình huynh đệ với chúng tôi, và nay khi lơi bớt sự chú tâm vào thí nghiệm với chú gnome từ nẫy giờ vẫn chơi đùa trong phòng, gương mặt xinh đẹp và quý phái của ngài hóa dịu dàng và nở một nụ cười, đáp lại lời hứa của tôi là sẽ trợ giúp ngài trong việc làm, thiên thần dang tay ban phép lành, bao phủ chúng tôi trong chốc lát bằng hào quang sinh lực của mình.

CHƯƠNG  IV
Tiên Nữ

Cotswolds
Cánh đồng xa trục thảo, 2 August, 1925

Có một loài tinh linh ở đây, là tiên nữ đích thực và có vẻ như liên hệ chặt chẽ với cây xa trục thảo clover. Tinh linh có dạng nữ, thường cao chừng 1 m nhưng có thể làm cao bằng người. Khả năng mở rộng này được dùng nhiều hơn là tôi thấy trong những lần quan sát trước đây, và rất thường dùng giữa những khi ‘làm việc’. Để tả với nhiều chi tiết, tôi chọn một tiên nữ đã lại gần bọn tôi, và đang bay lượn sát trên đầu những khóm xa trục thảo. Hình thể hoàn toàn được phủ bằng quần áo là hào quang tuôn chẩy; có áo lót mầu xanh dịu giống như nylon, qua đó thấy đường nét rất mờ của hình thể mầu hồng lúc có lúc không, thay đổi theo chiều hướng và dạng của đường lực. Bao lấy áo này và trộn lẫn với nó có những lằn mầu hoa xa trục thảo, chạy suốt hào quang và dường như chồng lên mầu xanh; chúng không có dạng thường trực, tuy có dạng những đường chẩy từ vai xuống tụ lại ở thắt lưng, rồi mở rộng trở lại khi tuôn theo bên hông vào những phần thấp của hào quang.
Khả năng bắt chước lại tỏ ra lần nữa, vì trong lúc tôi cố gắng nhìn để mô tả chính xác cô nàng, tiên nữ lại bắt đầu phỏng theo áo khoác tôi đang mặc, dùng mầu tím nhạt của xa trục thảo để làm nên áo khoác. Cô không sợ chút nào và tỏ vẻ thân thiện, ‘đứng’ cách chừng 4 - 5 m, cho tôi thấy tiên nữ thật xinh đẹp. Những đường lực chẩy từ một điểm tương ứng với tùng thái dương, có vẻ như là sinh điểm trên người cô, xuyên qua hào quang, mầu vàng chói và rực sáng như mặt trời tí hon; những làn túa ra giống như các đường rất mảnh vàng chói, tỏa khắp hào quang; chúng phân ra ở hai bên cô rồi chạy ra ngoài bìa hào quang, trông hơi giống đôi cánh. Có một trung tâm khác trên đầu mầu trắng bạc, và từ đó cũng tỏa ra những đường lực - phần lớn tuôn vào không khí trên đầu; chúng tượng trưng cho hoạt động tình cảm và trí tuệ, và thường xuyên thay đổi hình dạng cùng mầu sắc.
Đầu giống thiếu nữ, tóc và lông mày mầu nâu đậm, gương mặt tròn xinh xắn, mầu tươi mát và mạnh khỏe, tóc để dài, chẩy ra sau và buông từ trán xuống, chìm mất trong đường lực của hào quang; tay chân không thấy rõ dạng qua lớp áo hào quang mầu xanh nói ở trên, nhưng chân mang đôi ủng nhỏ nhắn vừa sát, mầu xanh, miệng ủng loe rộng như cánh hoa phía trên mắt cá, và dường như chân mang vớ. Phần loe rộng có mầu xanh đậm hơn một chút, thỉnh thoảng có một sắc vàng đó đây không cố định. Cái áo xanh nói tới lúc nẫy rất rộng và tha thướt, và cũng vì rất nhẹ nên lay động mãi, như có làn gió luôn luôn thổi vào. Thỉnh thoảng trọn thân hình ở giữa hóa rõ nét. Cử chỉ tiên nữ hồn nhiên và nghịch ngợm. Cô đưa cả hai tay ra phía trước như mời gọi chúng tôi lại chơi với cô những trò của tinh linh giữa đám xa trục thảo.
Bây giờ tiên nữ có cử chỉ rất yêu kiều, cái này sau cái kia hết sức mau lẹ. Tôi thấy được ba cử chỉ. Cô nàng khởi đầu bằng cách duỗi bàn tay và cánh tay xuống dưới trước mặt tôi hết mức, bàn tay chắp lại, ngón dang rộng. Rồi cả hai cánh tay làm thành vòng tròn hướng ra ngoài, lên trên, ngưng lại một chút ở ngang vai rồi dang rộng lần nữa, gặp nhau ở trên đầu. Giữ cho bàn tay chắp lại, cô hạ cánh tay xuống chậm, dang tới hết mức trước mặt mình giống như vị trí ban đầu, rồi lập lại trọn chuỗi động tác ở trên. Tới lúc này cô đảo lại cử động ấy và thêm hai vòng bán kính, bằng cách ngừng trong một tích tắc ở vị trí giữa đường thẳng và đường ngang. Tác dụng của cử chỉ ấy là kích thích hoạt động ở tùng thái dương solar plexus lên một mức, làm cho mỗi hình dáng của quần áo mô tả ở trên biến mất, hình thể giống người từ trên vai xuống cũng không còn, chỉ có tùng thái dương và huyệt ở đỉnh đầu sót lại và những đường lực túa dài. Cô mang năng lực vào người bằng những cử chỉ ấy, lập lại thường xuyên và thêm nhiều cái khác thật mau lẹ tới mức không sao theo dõi kịp.
Giờ tiên nữ vung tròn cả hai cánh tay, một cái dang rộng đằng trước và một cái đằng sau, tạo nên những ‘căm’ xe cũng ở vị trí giữa đường thẳng và đường ngang; nhưng trong khi dạng của động tác ban đầu là hình đĩa dẹp hướng tới người xem, cái sau thêm một chiều đo vào đó, cho ra đường kính của một khối cầu trọn vẹn. Chuyện ngộ là bàn tay và ngón tay xòe rộng, và những đường lực từ đó chẩy tràn ra một khoảng hai tấc, làm tăng thêm vẻ mỹ lệ một cách đáng kể. Tới đây cô nàng bước vào trạng thái hoan lạc tràn đầy, bằng cử động của đôi tay và bàn tay cô đã tạo quanh mình một hình cầu trọn vẹn, cao chừng 2,5 m với hai tâm, một ở tùng thái dương và một ở đầu, tương ứng với nhau và với hình cầu giống hai tâm của một hình ellipse. Gương mặt và cánh tay vẫn thấy được, nhưng mọi đường nét giống thân người đã biến mất; chỉ còn lại một bầu có phân ranh rõ rệt với lực túa ra. Bên ngoài đường nét là một vùng sáng mầu xám ngọc trai cũng có những đường lực tỏa rộng.
Tiếp xúc tâm thức của tiên nữ ở trạng thái hiện giờ cho một cảm xúc hoan lạc rạng rỡ, một niềm hạnh phúc sâu đậm vượt hẳn kinh nghiệm bình thường nơi người. Không giống như thủy tiên, khi đạt tới tuyệt đỉnh của sự hoan lạc thì tuôn ngay lực mà chúng giữ đầy, tiên nữ xem như ở lâu trong trạng thái ấy. Tới đây cô rút lui khỏi hình thể đã tạo, chậm chạp bay lên cao tới cõi tình cảm, giống như biến từ từ cho tới khi tâm thức rơi khỏi bầu chói sáng lơ lửng bất động trong không, thoát ra khỏi bầu và có vẻ như trở về hồn khóm. Hình cầu vẫn sống động, rõ ràng và chói sáng.
Để thí nghiệm, tôi hướng đường lực vào bầu, nó xuyên vào rồi đi thẳng ra không chút trở ngại, hình thể cũng không bị dao động, và tôi có cảm tưởng nó có sự quân bình như dao động kế. Hình thể không cưỡng lại đường lực đi ngang qua, nhưng chống lại mọi cố gắng nào tìm cách thay đổi hình dạng hay vị trí của nó; thí dụ tôi ráng nâng hình trong không mà chẳng được.
Có những bầu tương tự như thế trong những chỗ khác nhau của cánh đồng, cũng như có nhiều tiên nữ giống như cô vừa tả, thay đổi về hình dạng, mầu tóc và nước da. Những ai đang làm việc với cây chìm sâu vào nó, hòa mình với thể tình cảm của cậy, bao trong người một khoảng đất chừng 5 - 6 tấc ? Chúng ở trong trạng thái này một lát, rồi phóng lên cao, lơ lửng trong không, bay tới một chỗ khác của cánh đồng và lập lại diễn tiến ấy. Cánh đồng rộng chừng hai mẫu, phải có ít nhất một trăm tiên nữ làm việc ở đây.
Một trong những tác dụng của hoạt động tiên nữ, là thúc đẩy tâm thức nơi cõi tình cảm của hồn khóm thảo mộc đầu thai trong cánh đồng này. Thấy rõ là khi một cây nở hoa, tâm thức lúc ấy hoạt động tích cực nhất, chịu đáp ứng với những khích động do hàng ngũ thiên thần mang lại. Người ta gần như cảm được tâm thức của cây gắng sức vươn lên đến tiên nữ trong vùng làm việc, và chắc chắn diễn trình tiến hóa được đẩy mạnh.
(Mười phút sau)
Khối cầu của tiên nữ vẫn còn. Lúc này tôi không thấy trong đầu cô có một chủ đích riêng biệt nào trong việc tạo khối cầu; dĩ nhiên là có niềm vui sáng tạo bình thường trong việc tạo nên một vật xinh đẹp. Chắc những khối cầu như thế được dùng vào chuyện rõ rệt tuy lúc này tôi không biết ấy là mục đích gì; có lẽ chúng tạo nên bầu dự trữ năng lực để từ từ thả vào hồn khóm thảo mộc.
Bây giờ một số tiên nữ nhẩy múa quanh hình cầu tôi đã nói, tắm mình trong bầu không khí chói lọi của nó, và hiển nhiên cảm thấy vui sướng từ việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bầu. Chúng tụ thành vòng tròn bao kín, và chạy quanh như điệu vũ miền quê. Điệu vũ ấy tự nó sinh ra một hình, tiên nữ đang tạo một bầu tròn hình cánh hoa, với khối cầu đứng ở giữa trong khi tiên nữ nhẩy múa chung quanh; cánh hoa mọc càng lúc càng cao, cho tới mức cao hơn đỉnh khối cầu một chút, cho ra một hình rất đỗi xinh đẹp giống bông hoa có đường kính trên dưới 3 m và cao 2,5 m - tựa như hoa mẫu đơn ở cõi tình cảm, có tỷ lệ tuyệt hảo và xinh đẹp chói ngời. Trong lúc tôi ngắm, những cánh hoa vẫn tiếp tục mọc cao hơn, rồi dần dần khép kín phía trên bầu. Tiên nữ vừa nhẩy múa vừa hát - tôi không nghe được âm thanh nhưng đoán ra khi nhìn môi mấp máy, và sự biến đổi trên gương mặt - các cô hóa cuồng nhiệt hơn, tựa như sắp lên tới cực điểm; cả bọn đã bay lên trên cao và tiếp tục bao vòng cái hình đã tạo cách mặt đất chừng 1 m, đầu hất ra sau, tóc chẩy dài xuống, tay chân mầu hồng lộ ra khi nhẩy múa. Cử chỉ và thế đứng các cô đẹp biết dường nào.
Trong những lần chạy quanh ấy, đôi mắt chúng dán chặt vào những cánh hoa, hình như mỗi tiên nữ lo cho một cánh. Chúng đang sử dụng khả năng tạo hình, và xem ra thật tinh luyện; mỗi cô chú tâm mạnh mẽ, tia nhìn hướng vào điểm cao nhất mà cánh hoa đã mọc. Giờ cánh hoa cong lại theo đường mềm mại hướng vào tâm, đụng nhau và nối liền. Tiên nữ đã vươn cao lên tới đỉnh, vẫn còn nhẩy múa ca hát, mắt vẫn còn dán vào tác phẩm của mình; tinh linh đã tạo nên một hình hoa hoàn toàn, không hẳn là hình cầu, đáy hơi dẹp so vởi đỉnh và cái sau dẹp lại gần như bằng; hình thể đẹp một cách lạ lùng, và đường nét những cánh hoa ban đầu, tuy giờ đã nối vào làm một, vẫn còn thấy rõ. Chúng hợp thành một vỏ bao kín mầu trắng tinh khiết lấp lánh, điểm mầu xanh lá cây và mầu xa trục thảo; khối cầu bao bọc ở trong chiếu một ánh mờ.
Tiên nữ cắt vòng tròn của chúng ở một điểm, mở ra thành một đường, di chuyển ngang cánh đồng tới một khối cầu khác rồi xếp vòng tròn và bắt đầu làm chuyện tương tự. Hoạt động này xẩy ra trong những nơi rải rác của cánh đồng, nơi mà tinh hoa chất ở cõi tình cảm được xếp vào hình dạng tiên nữ tạo ra. Và bằng cách ấy những ‘hoa’ ở cõi tình cảm mọc nên thành hình.

Grand Salève, gần Geneva,
5 June, 1925

Có một loài tiên nữ ở đây xem ra không có hình dạng bình thường của người, tuy rằng chúng có khả năng tạo được hình ấy nhưng không làm, và chỉ lộ ra đầu với gương mặt. Cùng lúc hào quang đậm hơn ở những phần của cơ thể nói chung, hoạt động ở nơi ấy nhiều hơn và khác với phần còn lại của hào quang. Nó lộ ra dưới hình thức mầu sắc thay đổi liền liền; giống như bánh xe quay tít có những dải hơi cong đầy mầu sắc chẩy từ tâm ra chu vi, đan vào nhau khi bánh quay. Mỗi dải có nhiều mầu khác nhau, và có vận chuyển riêng, thêm vào chuyển động tròn của hệ thống. Sự chuyển động của dải hơi tương tự như việc cái kéo khép mở, cho ta cảm tưởng những dải mầu liên tục chẩy vào, chẩy ra từ tâm. Có đủ mầu ở đây, gồm những sắc rất dịu và kết hợp nhau không ngừng cho ra những mầu tuyệt vời, hoạt động này thấy ở cả hai chiều mà lại có tác động ở chiều thứ ba.
Một tiên nữ đặc biệt mà tôi đang ngắm có vẻ duyên dáng và lạ lùng hơn nữa, cô không phản đối chút nào sự hiện diện hay sự quan sát của tôi. Gương mặt giống như của một cô gái miền quê trẻ trung, rất xinh xắn, nụ cười không tắt, thật lôi cuốn. Có đông tiên nữ như thế trên sườn đồi, giống nhau tuy có hơi khác đôi chút trong cách biểu lộ và mầu tóc. Loài tóc đậm xem ra nghiêm trang hơn và một số cô tỏ ra thật uy nghi. Nước da trắng chỉ thêm một chút mầu.

Tuy có thể bay lên cao trong không, tiên nữ dành phần lớn thì giờ bay lượn chỉ ngay trên đầu ngọn cỏ dại, đôi khi sà xuống một cụm hoa đồng. Khi làm vậy, hình dạng tiên nữ biến mất, hào quang trải rộng bao trùm cây hay bụi hoa tùy trường hợp. Về một phương diện có thể nói chúng bao bọc vật chịu trách nhiệm, nhưng cùng lúc giúp vật hiểu biết, khiến cho vật được khích động tâm thức hai lần, lần đầu là chính tâm thức của sự sống đang tiến hóa trong vật, lần hai là tâm thức rất đỗi sống động của tiên nữ. Trong khi hào quang mở rộng như vậy, ta thấy được một vài hoạt động nhịp nhàng trong đó. Với một số trường hợp, hào quang nở rộng đáng kể, vượt ra ngoài chu vi của bụi theo một nhịp chậm, đều đặn, nhưng với các tiên nữ khác nó có vẻ như chớp chớp thật mau, làm ta nhớ tới cử động lẹ làng của cánh bướm. Khi cố gắng đi sâu vào tâm thức của chúng trong những lúc như vậy, tôi thấy rằng dường như chúng cố gắng chìm sâu hơn vào tâm, hay điểm sâu kín của đời sống linh động trong hoa. Làm được vậy rồi tinh linh bay bổng lên không, lượn trong sự yên lặng và thong thả trong khi sinh lực được phục hồi.
Tới đây tôi đi sâu được một phần vào thế giới của chúng, thỏa mãn được ý mình. Bầu trời có rất nhiều tiên nữ, một số bay xuống làm việc tôi vừa mô tả ở trên, một số khác bay lên khi làm xong. Khoảng cách trung bình mà chúng bay lên thì chừng 5 tới 6 m hơn, tuy có cô bay cao hơn thế; ở độ cao ấy chúng bay tới lui nhiều hơn; có lẽ vì chúng di chuyển tới lui ở độ cao này, từ 27 tới 33 m. Khung cảnh rất đỗi tuyệt vời, và bầu không khí thật quyến rũ. Tôi không thấy chúng có công việc nào khác hơn cái đã nói. Lẽ tự nhiên chúng rất bận vào khoảng thời gian này trong năm. Tiên nữ nói tới lúc ban đầu vẫn còn đứng gần chúng tôi và nhìn kỹ hơn, tôi thấy có vết thật mờ giống như đôi bàn tay, nhưng không có thân hình, chân hay cánh. Phần đậm đặc của hào quang cao chừng gần 3 m.

Vùng Cotswolds
7 August, 1925

Tôi rất thích thú khi quan sát một tinh linh cũng đang chăm chú nhìn kỹ tôi như chúng tôi nhìn kỹ cô. Sinh vật chưa có một cá tính độc lập hẳn, còn đang ở trong giai đoạn giữa tiên nữ và thiên tiên, mang vài tính chất của cả hai loài.
Tuy cô xuất hiện mới đầu vào lúc chúng tôi băng qua khu rừng rậm, và vẫn còn bay lượn trên đầu ngọn cây thông mà chúng tôi đang nhìn xuống, cô không có vẻ như liên hệ rõ rệt với khu rừng, và chắc chắn là không bị ràng buộc vào công việc cho cây hay một nhóm cây. Tôi nghĩ cô là hoa tiên đang bước qua giai đoạn sống trong không như thiên tiên, và thời điểm cho cô đạt sự độc lập hoàn toàn rất gần kề. Thân hình gồm chất liệu của những cảnh cao cõi tình cảm, rất sáng, dẻo dai và xinh đẹp. Hình dạng thật sự và cung cách giống như của một nữ sinh đầy sức sống. Lúc này đây hào quang nơi cô rất giống như những cụm mây bay đầy mầu sắc, với những lượn sóng  hay gợn sóng ánh sáng lăn tăn xuyên qua đó, nối tiếp mà xuất hiện không đều. Cô có sự vững chãi trội hơn nơi một tiên nữ trung bình, và thấy rõ là có thể đứng tương đối bất động trong không một lúc lâu. Cô thấy thể trí và tình cảm của chúng tôi rõ ràng, nhưng cô phải chú ý một chút mới thấy được thể xác bọn tôi, và dù vậy ảnh tượng của cô vẽ nó cũng rất mờ mịt.
Cố gắng tiếp xúc với tâm thức của cô, tôi nhận thức rằng tinh linh thấy rõ nhất thể tình cảm của mọi vật ở cõi trần; chẳng hạn cái cây đối với cô có dạng một khối đậm đen ở giữa, tương ứng với thể xác, và khối ấy được bao bọc cũng như được xuyên thấu bằng ánh sáng nhấp nháy mầu xám nhạt, tôi cho đó là thể sinh lực, và thể này được hào quang tình cảm mầu tím bao phủ, rộng chừng một tấc rưỡi bên ngoài thể xác. Đối với cô, mỗi cây giống như một động cơ mà xuyên qua đó, và chẩy vào đó là lực phát xuất từ cõi tình cảm, làm sống động và chiếu rọi nó, giữ cho nó linh hoạt theo cái nhìn của cô; và đương nhiên là cô đúng, vì không có lực ấy cây không thể nào sống được.
Theo sinh vật, dường như cây đang thực hiện công việc giống như điều ta gán cho hạt nguyên tử hồng trần, nhưng ở mức độ rộng rãi hơn. Cô nhìn thấy một xoáy năng lực mầu vàng chói ở rễ của cây ngay dưới sát mặt đất, qua đó lực từ cõi tình cảm tuôn vào, rồi chẩy ra trọn thân cây. Có vẻ như tinh linh không biết chút gì về tiến trình ở cõi vật chất; sao đi nữa, cô không lưu ý tới tiến trình cho lắm, vì tin chắc rằng nó chỉ là thứ yếu so với cõi tình cảm và không quan trọng mấy. Nếu diễn tả ý của cô bằng ngôn ngữ chúng ta, cô gạt qua bên ngụ ý của tôi về tiến trình ở cõi trần, nói rằng ‘Điều quan trọng là sự tuôn chẩy của sinh lực.’ Cô nói rằng mình có biết về tiến trình ở cõi trần nhiều hơn chúng tôi, có nghĩa về sự sống.
Cô đang cố gắng hiểu điều mang xác phàm có ý nghĩa gì với chúng ta và với cô. Tinh linh tạo một ảnh hưởng ‘lôi kéo’ tôi, như thể muốn thử xem cô có thể làm chuyển dịch xác phàm của tôi. Vì vậy, cô thu hút và kéo về mình phần trước của thể tình cảm và thể trí của tôi, cho tới lúc chúng đụng vào các thể của cô ở xa 5 m, nhưng cố gắng mấy cũng không làm cô ảnh hưởng được thể xác của tôi. Tâm thức của cô khi làm vậy chỉ có một ý tưởng là sẽ có sự đáp ứng tức khắc, bởi đó là cách vật liệu ở cõi thanh luôn luôn phản ứng khi ý chí tác dụng; và sự việc đúng hơn nữa ở giới thiên thần hơn là ở loài người, vì chất liệu cấu tạo nên các thể thanh của họ có vẻ như sống động và chứa nhiều điện hơn chúng ta.
Cô khám phá điều ấy khi chạm vào hào quang của tôi, vì nó rất nặng nề với cô. Tinh linh giữ lấy một phần của hào quang, để chạm vào người và xem xét chúng giống như ta xem xét một mẫu vải. Bằng cách hòa hợp tâm trí của tôi và cô tới một mức nào đó, tôi làm cho cô cảm được tình trì trệ của xác thân. Nó trì trệ đối với tâm thức sinh vật nhiều hơn là đối với tôi, cô cảm nó giống như tôi cảm khi mang thân xác bằng chì.
Giờ đây cô lắc lắc thể sinh lực để làm nó nhúc nhích và tôi giúp cô tiến sát đến thể xác tới hết mức có thể được. Trong một lúc tinh linh hoảng hồn, rồi thấy mình bị chôn cứng, vô phương vùng vẫy; cô ráng hết sức để nâng thể xác vào trong không, và làm vậy khiến thể sinh lực mở rộng, tràn ngập ánh sáng; nó cũng làm cho thể xác thấy nhẹ hơn một chút, sinh ra một ý thức lạ lùng mà ta thường có trong giấc mơ, là chỉ cần ráng chút xíu thì có thể bay được. Sự tiếp xúc rất gần này với cô làm tôi cảm thấy như các nguyên tử trong người tách xa nhau, sự ràng buộc hóa lỏng lẻo. Tôi nghĩ một thiên thần đầy quyền uy có thể biến đổi thể xác sang thể sinh lực, có lẽ đó là chuyện xẩy ra cho Từ Thức hay Lưu Thần, Nguyễn Triệu.
Một trong số những cảm giác sinh ra nơi cô là nỗi kinh ngạc, rằng chúng ta có thể chịu sự tù túng như vậy cả đời. Có vẻ như cô không biết gì về sự sinh và sự tử, hay ngay cả sự tự do trong lúc ngủ tuy tôi cố gắng giải thích những việc này cho cô. Đối với sinh vật cuộc sống của chúng ta thực phức tạp, và cô không thể hiểu vì sao chúng ta lại chọn nó, thay vì đi theo con đường tương đối thẳng bong của đời sống thiên thần, vì họ không nhấn mạnh quá đỗi vào hình thể như chúng ta. Cô nói, ‘Không thể vượt nhẹ nhàng vào không trung, phóng một khoảng cách thật xa, vút qua một thung lũng mà phải kéo lê mệt nhọc, chậm chạp một thân xác thô kệch thì còn tệ hơn là không hiện hữu’. Xem xét sự việc theo tâm thức của cô, khó mà thấy cô sẽ là một trong những thiên thần chịu đổi sang đường tiến hóa của người, nhưng tôi thú nhận là thí dụ ngược lại rất đỗi hấp dẫn với tôi.
Tôi vừa cho cô một ý niệm sơ lược về các Chân Sư; tinh linh biến đổi tư tưởng ấy vào thế giới của mình và nghĩ tới vị đại thiên thần, bậc lãnh đạo mà cô có ý thức. Lúc ấy thiên thần của thung lũng xuất hiện sau lưng cô, cười rạng rỡ thật tuyệt vời, đầy vẻ mỹ lệ sáng chói, bao phủ cô trong hào quang của ngài, kéo cô lại gần bên trái mình. Điều ấy khiên cô rất đỗi sung sướng, cảm thấy hoan lạc. Cô chỉ đứng trong phút chốc rồi xẹt đi, lâng lâng do sự tiếp xúc ấy và nhẩy tung tăng như thú vật trong rừng. Mối liên hệ giữa hai người thật giống như của đệ tử và Chân Sư trong hàng ngũ nhân loại.
Trong trí của thiên thần thung lũng, dường như có sự hiểu biết rõ ràng về những chặng tiến hóa mà thế giới thiên thần phải đi qua, và tôi cho rằng ngài đã mang tinh linh  và tôi lại với nhau, có lẽ để cả hai chúng tôi học hỏi. Ngài cũng ý thức được những bậc cao hơn, những đẳng cấp trong hàng ngũ thiên thần. Cố gắng tìm hiểu ý của ngài làm tâm thức tôi hướng lên trên vào phần bên ngoài trái đất. Tôi hơi e ngại trong việc diễn tả ảnh tượng dưới đây, vì làm vậy xem như tôi đã tầm thường hóa và hạ thấp giá trị của việc.
Tôi thấy một cái bàn dài phủ vải trắng với ánh sáng chói lòa, ở giữa có một chữ thập. Những thiên thần cao cấp ngồi hai đầu và từ mỗi đầu một hàng thiên thần xếp dài, càng lúc càng cao trong không cho tới khi nhìn chỉ còn lại một sự rực rỡ chóa mắt, và vẻ chói lọi không xóa nhòa; có nhiều bậc dẫn tới bàn và các thiên thần lên xuống những bậc ấy. Từ ở giữa của viễn tượng năng lực tuôn chẩy đều đặn, lượn này tiếp theo lượn kia đầy mầu sắc thanh nhã mà rất sống động; mầu vàng chói và mầu hồng, nó chẩy ra ngoài xuống dưới, làm cho toàn cảnh có vẻ rực rỡ vượt xa hẳn khả năng mô tả của tôi.

CHƯƠNG  V
Công Việc của Tinh Linh

Trong một buổi đi dạo ở rừng Epping, chúng tôi thấy một gốc cây đã bị đốn rụi, và có nhiều nhánh nhỏ đâm ra ở hai bên thân. Khi cố gắng tìm hiểu chúng tôi thấy mỗi nhánh có liên hệ với một tinh linh, sinh vật chịu trách nhiệm về sự nẩy nở của nhánh, và là mấu chốt cuối cùng của một chuỗi tâm thức, lên đến tận vị thiên thần trông coi loài thảo mộc; nó giống như con ong hơn là tiên nữ, và đang vo ve quanh tôi khi tôi đến gần quan sát nhánh cây.
Khi cây bị chặt, phần lớn tâm thức rút về, nhưng vì rễ còn nằm lại trong đất và vẫn còn sống, một phần tâm thức còn lưu lại. Gốc cây không phải là phương tiện đáp ứng lý tưởng, nhưng tới lúc thuận tiện và nhánh con đâm ra, tinh linh trở nên là phương tiện để biểu lộ và mở rộng cho đời sống bên trong; dù tâm thức cây xâm nhập mọi tế bào, còn có một trung tâm sinh lực và tình cảm nằm ở dưới gốc cây, chỉ dưới mặt đất chút xíu, nơi rễ bắt đầu mọc. Nó giống như một bầu sáng trong mầu vàng, đường kính chừng một tấc hay tấc rưỡi; nhiều lượn sóng từ đó tuôn ra, làm cho nó giống như một đóa hoa lớn mầu vàng, cánh hoa nhọn xếp thành những vòng đồng tâm, và nhạt dần khi ra xa tâm. Ở chính giữa cái ‘hoa’ này, lực từ thể tình cảm tuôn mãi vào thể sinh lực, tạo thành một xoáy phát ra làn rung động ở cõi thanh; nó gây ra âm thanh hướng dẫn và điều khiển phần lớn hình dạng của bất cứ sự tăng trưởng nào xẩy ra trong vòng ảnh hưởng của nó. Chuyện lạ lùng là khi làn rung động này chạm vào hào quang của tôi, nó sinh ra trong đó một hình cây tí hon, tựa như kiểu mẫu của cây trưởng thành.
Có vẻ như tiến trình tương tự như thế xẩy ra trong tâm thức của thiên thần kiến tạo ở mọi cấp bậc; mỗi sinh vật tùy theo khả năng và mức phát triển, nhờ vào cách này mà thấu đáo phần việc phải làm, cả về mầu sắc lẫn hình dạng. Với hàng tinh linh thấp hơn tiến trình màu xẩy ra gần như hoàn toàn do bản năng, và có lẽ nó chỉ được ý thức nơi thiên thần cấp cao. Khi nhánh cây lớn dần, nó càng lúc càng có ý thức và làn rung động từ trung tâm trở nên phức tạp, nhiều ‘nốt’ mới được thêm vào, mỗi nốt kêu gọi một loài tinh linh kiến tạo riêng, làm sống động loại vật chất tương ứng với nốt ấy vào tạo hên hình thể mà vật chất này sẽ tụ lại trong đó.
Tâm rung động của trung tâm sống trong trường hợp có đường kính khoảng 4 m, tạo nên một khối cầu trong đó có nhiều loài tinh linh làm việc; các sinh vật này được kêu gọi tới đây theo cái ‘nốt’ chính trong bản chất mình. Chúng làm việc ở cảnh ether, hấp thu chất liệu rung động cùng mức với mình và do vậy làm chuyên biệt hóa vật liệu, sau đó tuôn tinh linh vào cái khuôn hình thể bằng chất ether. Theo cách thức này và nhờ các sinh vật trên, sự tăng trưởng trên của cây dần dần được thực hiện

CÔNG VIỆC CỦA TINH LINH CÂY

Cây có linh hồn vì Chân thần tiến hóa bằng cách nhập vào trong cây và học hỏi, sự tiến hóa ấy thành mau lẹ hơn khi được tinh linh chăm sóc. Ảnh hưởng đầu tiên là khả năng đáp ứng với thế giới bên ngoài, của tâm thức cần mở mang trong cây, được thức dậy. Hào quang rực rỡ của tinh linh liên tục tác động lên tâm thức cây, sau một thời gian sẽ làm cho nó tự sinh ra sự rung động. Tính nhậy cảm của cây với những tác động bên ngoài càng lúc càng tăng, và tâm thức dần dần đáp ứng lại những tác động này.
Tinh linh cây thường tiến hóa hơn cây vượt bực, đóng vai trò trung gian, hay con kinh cho năng lực từ những cảnh giới cao của tâm thức; như thế nó làm công việc tương tự như của Chân nhân với con người, tức là gạch nối giữa tinh thần và vật chất. Tinh linh làm được chuyện này vì tâm thức sinh vật được thức tỉnh rất cao, và đó là yếu tố quan hệ.
Ta có thể nói mỗi nhóm rau cỏ được một thiên thần cao cấp trông nom, và nhiều tinh linh làm việc dưới quyền ngài. Hệ thống này là khuôn mẫu trong cách làm việc của thế giới thiên thần, từ trên cao xuống tới các tiên nữ và tinh linh tạo hình hài. Vị thiên thần trông coi hồn khóm sẽ làm việc và tuân theo một đại thiên thần khác trong loài thảo mộc, và vị này, bởi thấu rõ Thiên Cơ trong trí Thượng Đế, truyền mệnh lệnh xuống cấp dưới cho đến tinh linh tí hon ở cõi ether.
Việc kết hợp và ở với cây một thời gian dài của thiên thần có thể được xem là sự hy sinh, một cách phụng sự, và là phương tiện cho ra sự nẩy nở mau lẹ nhất. Giống như mọi hy sinh đúng nghĩa, nó không tạo nên đau khổ, tuy thiên thần có thể thấy bị giới hạn phần nào ở những cảnh thấp. Khi tới ngụ trong cây, thiên thần dường như hòa hợp mình với trọn sự sống trong cây, khiến sự vật đang hỗn độn trở nên đồng nhất, sinh vật do đó có thể xem như là sự biểu lộ của linh hồn cây, tuy cùng lúc đó nó là một thực thể riêng biệt.
Do sự kết hợp này ta thấy được mối liên hệ giữa tinh linh và cây, cũng như sự tiến hóa của cả hai được thúc đẩy như thế nào. Khi cây chết, hoặc chết già hay bị chặt, tinh linh rời được khỏi mối liên hệ này, có lẽ thiên thần đúc kết lại thành quả tiến hóa của cây và chuyện ấy dẫn đền tình trạng ngơi nghỉ, tương ứng với cõi thiên đàng của người. Còn về việc khối kinh nghiệm đặc biệt  ấy được hòa ra cho cả hồn khóm thảo mộc, hay được giữ lại và tái sinh cùng với tinh linh làm việc với cây thì tôi không thể nói gì, tuy tôi cho cái sau có thể xẩy ra cho cây nào có tâm thức cao. Ta tự hỏi tinh linh có khi nào muốn theo sát linh hồn non trẻ khi nó qua kiếp loài vật và ngay cả loài người. Chúng ta không biết mối liên hệ giữa người với thế giới thiên thần có thể truy ngược lại bao xa.

CHƯƠNG  VI
Brownies và Mannikin

Petit Salève, gần Geneva
1 June, 1925

Brownies trong vùng này có y phục tươi sáng hơn brownies thấy ở Anh. Chúng có rất nhiều trên sườn đồi, đa số đội nón mầu đỏ tươi, đủ thứ chóp, áo khoác mầu nâu bã trầu, quần có dây đeo qua vai; gương mặt rộng, ai cũng có râu và mắt nhỏ, mũ đen. Thân hình rộng bề ngang như bè ra, chân rộng khi chúng bước. Tay sần sùi, giọng nói ồm ồm.
Đang quan sát tôi thấy một nhóm nhỏ đi lên sườn đồi; một số mang túi đeo vai; một số khác mang xuổng với cán mài bóng loáng; có xuổng có tay cầm giắt vào thắt lưng, kẻ khác lại mang nó trong tay. Nhóm này có chừng 30 tới 40 chú, leo chậm chạp lên đồi, coi bộ phải ráng sức lắm. Chúng nói với nhau bằng giọng trầm ồ ồ, như thợ thuyền chuyện vãn trong lúc tới chỗ làm việc và ta thấy những cá tính khác biệt trong nhóm. Không phải ai cũng bí xị, có kẻ rất vui tính, và một chú như vậy tách khỏi nhóm đi lại gần chúng tôi. Chú đứng ở xa khoảng 7 - 10 m, chân dang rộng, tay chống ngang hông, ngước nhìn bọn tôi với gương mặt vui vẻ, có lẫn chút tự phụ, dường như muốn nói: ‘Coi tôi đây, nhìn kỹ chút đi, có phải tôi đẹp đẽ lắm không ?’ Chú dang rộng tay phải chỉ về đồi núi và đồng ruộng chung quanh, hẳn có ý bảo, ‘Trọn khu này là của tôi, nhà như vầy bạn có thích không ?’ Tôi kêu chú lại gần hơn, và sinh vật bước tới cách chúng tôi chừng 2 m, nhưng khi thể tình cảm chúng tôi bắt đầu chạm vào chú nhỏ, brownie mất tự chủ, hình dạng chú bắt đầu mờ từ từ, sự vui vẻ biến mất, chú bị rối trí và muốn mất đi ý thức về chính mình; sinh vật bước lui lại rồi vội vã chạy mất, nhập bọn trở lại với bạn bè lúc nẫy đã đi khá xa trên đồi. Chú nhỏ vừa kể không có nón, choàng một cái yếm bằng da như thợ rèn, có dây lưng với khóa cột chặt, có giắt vài đồ nghề bé tí của thợ rèn. Tôi thấy được một cây kềm tí hon và một cái búa nhỏ.
Giờ chú quay trở lại, gần như lấy lại được phong thái của mình, và nép một chút sau bụi cây, nhìn chúng tôi chằm chằm nhưng không còn tự chủ mấy. Điệu bộ nghênh ngang mà brownie tỏ ra ban đầu hoàn toàn mất hẳn. Lúc đó chú bị thúc đẩy bởi lòng kiêu hãnh và muốn khoe ta đây với chúng tôi, nhưng giờ chú trở lại vì óc tò mò và vì bị chúng tôi hấp dẫn. Chuyện đáng để ý là những đồ nghề và sợi thắt lưng đã mất hình dạng, chỉ còn là những nét mờ nhạt trong khối vật chất thô sơ mà chúng được tạo nên, tuy vẫn còn thấy được phần nào và dính với chú nhỏ ở chỗ giắt các vật ấy.
Ngắm nhìn chú, tôi thấy lòng tự tin đã trở lại mau lẹ, sinh vật bắt đầu thấy đầy tin tưởng hơn và bước ra khỏi đằng sau bụi cây; chú nhỏ lại tới gần chúng tôi nhưng không sát như lần trước, brownie chỉ cao bằng ngọn cỏ, chừng 4 tấc rưỡi.
Chú làm tôi kinh ngạc vì bất thình lình chú cất tiếng hát, giọng thật trầm và bài hát của chú chỉ là một chuỗi lập đi lập lại những chữ ‘Ho, ro, ro, ro’, và hình như diễn tả nỗi hoan lạc trong đời brownie. Bài chỉ có bốn nốt đi từ cao xuống thấp Sol Mi Do La và mỗi lần hát lại có trường độ khác nhau. Chú múa máy tay chân trong lúc hát, chỉ trỏ những cảnh khác nhau ở chung quanh. Khi cố gắng đi sâu vào tâm thức chú, tôi thấy sinh vật không thể thấy bên kia thung lũng ngăn giữa Grand Salève và Petit Salève; thực ra trọn ý niệm của chú về cảnh vật thì khá giới hạn, cỏ mọc đầy cũng làm chú không nhìn xa; nhưng sinh vật có một ý niệm rõ rệt về phương hướng và hình như có mối liên hệ với chỗ mình đang làm việc.
Giờ chú biến mất rồi, nhưng một số chú lùn khác lại đang ngắm bọn tôi với vẻ hiếu kỳ mà hơi nhút nhát. Bọn này thuộc một loài khác, chúng có gương mặt trẻ, tươi mát, nhỏ hơn và ốm hơn brownies, có thể gọi chung là mannikin. Chúng mặc áo choàng mầu xanh, gấu cắt lượn như vỏ só, dài quá hông một chút. Sinh vật thuộc lớp phát triển thấp hơn, có ý thức về mình ít hơn là brownie. Chúng sống trong cỏ và chỉ cao tấc rưỡi. Chú lùn nhẩy nhót trong đám rễ, phóng những bước ngắn. Xem ra chúng có liên hệ mật thiết, và không thể tách rời với cỏ, hình như cỏ là sự sống của chú lùn được biểu lộ. Hẳn sẽ rất thích thú nếu ta biết được điều gì xẩy ra cho cả bọn khi cỏ bị gặt mất. Tôi đoán là chúng sẽ tan biến đi cho tới khi cỏ mọc trở lại.
Chúng tôi đang ngồi dựa lưng vào vách đá dựng trên sườn đồi để ngăn đất lở. Trên đỉnh đồi một số brownie đang dòm xuống phía chúng tôi, tựa như chúng tôi làm chúng sôi nổi lắm. Cả nhóm bàn tán xôn xao. Một ông già bạo dạn hơn cả, có một thể xác (bằng ether) được kết chặt chẽ, vững vàng, bởi dù ông ở ngay đằng sau và trên đầu bọn tôi, ông có thể giữ vẻ tự chủ không chút khó khăn. Mặt đỏ, vui vẻ với bộ râu dài mầu xám, ông mô tả chúng tôi cho những kẻ nhút nhát trong bọn đằng sau ông. Vài kẻ không dám cả việc tới gần bờ tường, còn những kẻ khác ghé mắt dòm rồi thụt lui lại thật mau.
Trong lúc tôi đang tả những chuyện này số chú lùn tăng hơn, cho đến lúc cả một đám đông tụ ở khoảng đất phẳng trên cao; dường như chúng họp lại bàn bạc và chờ những kẻ đang tiếp tục quan sát chúng tôi kỹ càng trở lại. Lúc này tôi thấy ông già râu xám là nhân vật mà tôi để ý như là trưởng nhóm, khi cả bọn mới lên sườn đồi. Ông mặc áo choàng mầu nâu tới sát đất. Thấy ông già hơn những kẻ khác, và đương nhiên là kỳ cựu hơn về óc thông minh cũng như lòng tự chủ so với cả nhóm, và có vẻ như chúng tùng phục ông. Ông có ý niệm mơ hồ về việc nhóm có thứ bậc, biết rằng mình chịu trách nhiệm trong việc thi hành ý muốn của thượng cấp, và cách hướng dẫn cũng như sự sống của ông có nhiều tự chủ, và ít do bản năng hơn là với các tinh linh khác.
Cùng lúc ông rất trẻ thơ, ông tỏ vẻ mình là thượng cấp cao tột (tức một kẻ gần gũi với sinh vật cao là chúng tôi !), và có thái độ của kẻ quen được kính trọng, biểu lộ bằng việc ông nhìn chúng tôi không e ngại chút nào. Hình như ông không có ý niệm về sự khác biệt phái tính; ông thấy vợ tôi khác tôi, có nghĩa tóc nàng dài và cong, ông không thể hiểu được là trong khi chúng tôi thuộc về cùng một bộ lạc, chúng tôi lại có thể có bề ngoài hết sức khác nhau. Áo khaki và quần nỉ của tôi ông hiểu được, bởi chúng không khác mấy với cái ông từng quen, nhưng váy đầm của vợ tôi là vật mới và rất đỗi lạ lùng ông chưa hế biết. Thân hình to lớn của chúng tôi cũng làm ông kinh ngạc, và thấy rõ là dù có nhiều nhà cửa trang trại rải rác ở dưới thung lũng kia, có đàn ông và đàn bà làm việc với nhau trong ruộng vườn, ông chưa bao giờ thấy được người rõ như bây giờ.
Xem như ông có biết sơ sơ về đời sống của người, gắn họ với chỗ mà ông thấy họ và xem chỗ ấy hoặc là đễ chịu hay không dễ chịu, cảm nhận mù mờ đó là cái gì to lớn nhưng không tách rời nó ra khỏi khung cảnh. Kinh nghiệm hiện giờ làm ông thật thích chí, và thân hình bé nhỏ của ông run lên vì sự kích thích quá tới nỗi ông chịu không nổi; kinh nghiệm nới rộng tầm nhìn của ông ra rất nhiều, và ông sẽ không bao giờ quên được, và rất có thể là chẳng mấy chốc ông sẽ vượt ra khỏi sự giới hạn của kiếp sống brownie, để bước vào một cảnh sống khác với nhiều vùng trời tâm thức rộng rãi hơn.
Chúng tôi mở lời xin ông chúc lành nhưng điều này tỏ ra quá sức cho ông, và hình dạng brownie bắt đầu tan rã, thành ra chúng tôi không dám nài, và giờ đây ông nằm dài trên sườn đồi chậm chạp hồi tỉnh, trong khi bọn trẻ hơn xúm xít chung quanh. Tâm thức phục hồi lẹ làng, ông ngồi dậy, vẫn còn vẻ mất thần của người đã nhìn thấy một viễn tượng, và nhìn nét mặt của ông cũng cho ta thấy, rằng đời sống vui tươi của ông đã được tràn ngập hạnh phúc hơn chút nữa, và khi ông lại sức hoàn toàn, chắc chắn ông sẽ thâu lượm được nhiều điều hay cuộc gặp gỡ này.
Đến giờ phải về, chúng tôi rời nhóm brownie với giọng nói ồ ồ và tiếng nói chuyện râm ran vẫn còn vang bên tai, và thấy rằng cả chúng tôi cũng thâu lượm được chút ít kinh nghiệm này, nó cho chúng ta một cảm giác thân thuộc hơn với tinh linh, và làm sinh vật hóa ra dễ thương dưới mắt người.

Trong Rừng Cây Du ở Cotswolds
9 August, 1925

Có hằng trăm chú mannikin nhỏ mầu nâu chơi đùa trên nền lá dầy phủ kín mặt đất. Chúng cao chừng 2 tới 3 tấc, mầu sắc thay đổi từ xanh xám của thân cây du sang nâu đậm của lá chết. Liên lạc với chúng làm con người chìm đắm vào một bầu không khí rất đỗi lạ lùng. Chúng có gương mặt của ông lão rất già đi cùng với tâm trí trẻ thơ và sự nhẩy nhót, phá phách của những bé trai. Mannikin mặc áo choàng với quần tới đầu gối có dây đeo, làm bằng chất liệu giống như vỏ cây du mầu nâu; chúng có bàn chân nhọn ở đầu và vài kẻ mang đôi ủng bé tí. Nét mới lạ trong quần áo của chúng đối với tôi là nón, nó giống như nón trùm đầu xếp lỏng lẻo thành lớp trên vai, bao trọn đầu chỉ chừa gương mặt và thòng xuống đằng sau, tụ lại ở một điểm. Lông mày xám, có râu mép và râu cằm dài để nhọn hay cắt ngang, hay có kẻ để ít nhọn hơn. Vẻ cổ quái của tinh linh lại tăng thêm bởi nét mặt thật nghiêm nghị và sôi nổi chẳng vì một chuyện gì cả. Mới thoạt nhìn người ta có thể tưởng chúng là người rất bận rộn nhiều chuyện, nhưng khi nhìn vào phần trí của chúng, ta thấy gần như không có gì cả. Tôi cũng lại có cảm giác kỳ lạ là sự lập đi lập lại, như một người liên tục nhắc lại một câu trong đầu.
Có vẻ như chúng ‘sống’ bên trong cây, đi vào qua những cửa cẩn thận. Đó thường là những lổ hỗng nhỏ trên thân cây, hay nằm ngang với mặt đất, nhưng không phải cái nào cũng vậy. Có những nhóm sống trên chảng ba, nơi cành dính liền với thân cây. Dù có thể di chuyển một đoạn ngắn trong không, xem ra chúng thích chạy lên thân cây hơn, và chạy dễ dàng y như khi chạy trên mặt đất. Coi bộ chúng không bị ảnh hưởng bởi sức hút của trái đất, vì chúng giữ vị trí ngang song song với mặt đất khi chúng chạy lên chạy xuống, thân hình thẳng góc với thân cây. Tuy hình dạng chúng là một khối chung đồng nhất không có lục phủ ngủ tạng, nhìn kỹ vào sự di chuyển của chúng dường như cho thấy có vật gì tương ứng với bắp thịt; điều này thấy rõ nhất khi chúng nhẩy vọt. Khi phóng như vậy cẳng chân thấy rõ là cứng lại và thẳng đơ, rồi duỗi ra trong khi lơ lửng và cả hai chân co lại chuẩn bị việc đáp xuống; mặt khác, đáp xuống là việc rất êm, rồi tinh linh tiếp tục đi tới với cùng tốc độ.
Một số những chú nhỏ này đang biểu diễn cho chúng tôi coi, ngay cả người không có thông nhãn trong đám chúng tôi cũng có thể thấy lá bị lay động do chúng làm, dù họ không hề thấy chúng. Dường như chúng đang già, vì cái khác biệt rõ nhất trong bọn là tuổi tác. Mới lúc nẫy có một ông cụ hết sức già, lụm cụm leo lên đồi với vẻ của người tới xem chuyện gì mà chộn rộn nơi đây.
Ông không ngước nhìn lên, cứ cắm cúi mặt sát đất cho tới khi cách chúng tôi hơn một thước, rồi ông bắt gặp chúng tôi; chẳng biết ông cảm nhận được gì nhưng rõ ràng ông choáng váng. Đúng chúng tôi là chuyện hết sức mới lạ trong kinh nghiệm của ông, và thật buồn cười khi thấy vẻ tự cao và hóm hỉnh trẻ con biến mất, nhường chỗ cho sự lạ lùng; ông loạng choạng vài bước đằng sau, mắt trố ra tới nỗi ai thấy sẽ phải hoảng hồn ! Nỗi kinh ngạc dần mất đi và ông bước lại gần hơn, rồi đi vòng ra trước mặt chúng tôi hầu thấy rõ chút nữa. Không chắc ông có những cảm xúc nào khác, nhưng ông chẳng lộ chút sợ sệt nào; có vẻ như ông biết chúng tôi đang thắp hương và thích mùi hương đó.
Dù tôi không chắc là mình quan sát đúng đắn, tôi thấy không chút nghi ngờ nào là ông chống gậy y như người già chúng ta làm. Bây giờ ông ngồi xuống, xếp đặt cho mình xem xét sự việc kỹ càng. Một chút mưa ào xuống ngắn ngủi cho thấy là ông không bị nó ảnh hưởng tí ti. Ông lại bị ngạc nhiên nữa, vì giờ ông thấy là bọn chúng tôi có ba người thay vì chỉ có một như ông tưởng lúc đầu. Cô gái ngồi hơi xa xa cho ông cơ hội xem xét thêm; có vẻ như ông không thể liên kết cô với bọn tôi; đối với ông cô là hiện tượng độc lập nằm ngoài kinh nghiệm của ông, chúng tôi đối với ông cũng cho cảm tưởng đó, và cũng ở ngoài tầm hiểu biết của ông. Bây giờ cô đánh diêm thắp một cây hương khác, và ông kinh ngạc quá tới nỗi nhẩy bật lên khỏi mặt đất và chạy ra sau, cách chúng tôi thêm một thước nữa. Thật ngộ nghĩnh khi thấy ông bắn lên trong không cách mặt đất chừng một tấc rưỡi mà vẫn ở trong tư thế ngồi ! Ông lại mon men tới gần chỗ cũ, dùng tay bò tới.
Ảnh hưởng của hào quang chúng tôi trên ông quả thật thú vị. Thể trí nhỏ bé của ông là một khối mây vô dạng gần như không có mầu sắc nào, nhỏ hơn thể sinh lực, bắt đầu sáng lên, nó cho ra một cảm giác dễ chịu trong lòng khiến ông thích lắm; nói khác đi sự hiện diện của chúng tôi kích thích ông. Ông bắt đầu mất đi cảm xúc của mình cũng như vẻ già nua, tâm thức thay đổi biểu lộ bằng nụ cười ngây thơ dần dần nở trên gương mặt. Giờ ông hóa dạn dĩ hơn và tiến đến cách chúng tôi khoảng hơn hai thước, dường như đặc biệt bị hấp dẫn bởi cô bạn.
Sau vài phút, ông mất đi hình dạng già lão và nhẩy cỡn lên xuống trước mặt cô như muốn khoe ta đây. Ông quay tròn cây gậy, chốc chốc lại ngưng và chống tay ngang hông, cúi mình về phía cô. Lúc này một chuyện rất lạ xẩy tới cho ông, khi cúi xuống, ông nghiêng người từ hông xuống sâu tới nỗi thân hình song song với mặt đất, và bất thình lình thấy lá với mặt đất nâu, ông quên hẳn chúng tôi; nhìn như vậy chừng nửa phút khi ngửng lên thấy chúng tôi ông điếng người trở lại ! Lần này mạnh quá ông chịu không nổi, và mannikin vội vàng lui ra một khoảng xa, lùi vào cỏ mọc ở ven rừng.
Một nhóm trong bầy của ông dần dần biết đến sự hiện diện của chúng tôi, và tụ lại thành vòng bán nguyệt, đứng trong rừng dòm ra quan sát. Vài kẻ ngồi chết sững như trời trồng, vải kẻ khác đi tới đi lui hình như đang phê bình với cả bọn; kẻ khác nữa chạy ra thám hiểm về phia chúng tôi và rút về khi hào quang bọn tôi quá mạnh đối với chúng. Tôi thấy lại ông già khi nẫy; ông vẫn còn giữ hình dạng trẻ trung, còn bị khích động và lẩm bẩm với chính mình; coi bộ ông thấy khó mà đứng yên trên mặt đất, ông cứ bay lên rồi rớt xuống trên cỏ, như thể thân hình không vững, không kiểm soát được nữa.
Với những kẻ khác, ảnh hưởng chính mà hình như chúng tôi gây ra, là việc làm tất cả những giác quan của chúng hóa nhậy hơn. Dù việc so sánh không đẹp lắm nhưng ảnh hưởng giống như rượu tác động lên người chưa uống lần nào. Chắc chắn tác động sẽ mất đi về sau, nhưng nó sẽ để lại dấu vết mãi mãi trên sinh vật, và sẽ đẩy mạnh sự tiến hóa của chúng.
Thực vậy, chỗ mà chúng tôi đang ngồi đã được dùng rất thường cho những buổi quan sát khác, và đã được nhuốm từ lực, chúng tôi hy vọng nó sẽ tạo ra một kết quả tốt lành cho toàn thể sinh hoạt trong bầu ảnh hưởng của nó. Tuy chúng ta là người bình thường theo cái nhìn của nhân loại, chúng ta lại rất đỗi lạ thường theo tiêu chuẩn của mannikin, chúng cách xa con người y như ta cách xa những bậc thánh nhân.

Cotswolds
23 August, 1925

Những tia nắng của mặt trời chiếu rọi trên lưng đồi đầy cỏ ở bìa rừng, và điều ấy lôi cuốn một số lớn tinh linh từ trong rừng ra, chúng đang nô giỡn theo cách của chúng với nhau. Có ít nhất ba loại mannikin riêng biệt và khá đông tiên nữ. Cả bọn làm thành một cảnh tượng đáng yêu. Trong nhóm có những sinh vật sống trong cây ta đã nói trên kia, có elf sống trong cỏ.
Nhìn kỹ hơn tôi thấy mannikin của cây khác nhiều điểm so với mannikin thấy ở cây du, rừng ở khu này phần lớn gồm cây dương, mannikin ốm hơn, coi trẻ hơn và sinh động nhiều. Gương mặt rất mỏng, có góc cạnh và mũi nhọn. Chúng đội nón dài có chóp nhọn rơi xuống lưng khi đi, và thả dài ra sau khi lơ lửng. Y phục gồm áo choàng bó sát người và quần dài với vớ cũng nhọn đầu. Kiếu vớ này mới lạ đối với tôi khi quan sát tinh linh và hẳn phải bất tiện, vì khi chúng đi trên mặt đất nó cứ hay vướng vào chân, nhưng tôi không thấy nó làm cản trở chuyện đi đứng. Quần áo mầu nâu đậm với những chấm xanh lá cây đây đó, thay đổi theo từng sinh vật; có kẻ đội nón dài toàn mầu xanh lá cây, có kẻ chỉ thuần mầu nâu, lại có kẻ trộn lẫn hai mầu này. Tinh linh cao chừng nửa thước.
Một trò chơi chính của bọn là ‘chạy’ thật lẹ xuống sườn đồi cho tới khi cách khu rừng khoảng 7 m, phóng lên không mau lẹ, bay sát trên đầu tường ở bìa rừng rồi đáp xuống khoảng 20 hay 30 m bìa rừng bên kia. Coi chúng cổ quái khi ‘bay’ trong không với nón lơ lửng sau lưng, chân duỗi dài ra trước, chóp nhọn của vớ thòng quá ngón chân. Một số chạy lên chạy xuống sườn đồi lẹ làng, bằng những bước dài và ta thấy rõ là việc phóng lẹ trong không đầy ánh nắng làm chúng rất vui thích. Vào giờ này nắng bắt đầu yếu, dù vậy chúng cũng không chịu nổi nếu ở ngoài nắng lâu, và cứ chốc chốc phải ngồi nghỉ trong bóng mát của khu rừng. Rõ ràng là chúng không quen với ánh nắng mạnh, cho dù sức nắng đã giảm đi rất nhiều do cây trong rừng. Đó cũng là lý do tại sao chúng bay rất lẹ vào rừng như tôi đã tả ở trên, nhưng dù phải làm vậy, chúng coi đó là một nỗi vui thú.
Chú brownie thì có thân hình to lớn hơn và cục mịch, chúng là những ông lùn rất mập, cao chừng ba tấc, mặc quần áo thông thường của brownie, một số đông có khóa lớn sáng rực để thắt lưng đằng trước. Áo choàng có nón ngắn, viền hình vỏ sò, nón mầu vàng còn trọn y phục lại mầu nâu. Nón của chúng cũng nhọn và dài vừa phải. Nước da tươi mát, râu rậm mầu nâu, cả râu mép nữa. Đa số gương mặt nở nụ cười rộng. Chúng đi từng cặp đôi hay cặp ba đó đây, một số kết thành vòng chơi đùa. Điệu múa của chúng giống như những cố gắng vụng về của người không quen, trông chúng thật tức cười khi muốn đi mau hơn bằng cách trôi đi trên không, và chúng không hề biết điều ấy. Tôi vừa thấy một chú băng qua cánh đồng; chú lùn khởi sự bằng cách đi từ từ, xong gấp hơn rồi bay lên cao chừng 15 cm và trôi mau lẹ một khoảng chừng 30 tới 40 m, vẫn liên tục co duỗi chân như khi chạy, và tiếp diễn cử động ấy khi hạ xuống; sau cùng tinh linh đi chậm lại rồi ngưng hẳn.
Chúng không ngưng chuyện trò với nhau trong suốt buổi; vì tôi thấy nhưng không hề nghe chúng la hét với nhau, múa tay múa chân đủ trò. Tinh linh có rất ít đặc tính cá nhân, tâm thức của cả bọn gần như là một, duy nhất san sẻ gần như đồng đều cho khắp cả bọn. Cái điểm chính của tâm thức ấy là nỗi vui sướng, và trong lúc này đó là điểm nổi bật trong nhóm.
Tương tự vậy là mannikin mầu xanh lá cây, cao chừng một tấc đến tấc rưỡi, hình như chúng là biểu hiện của tâm thức có liên hệ mật thiết với cỏ. Sinh vật có gương mặt bầu bĩnh trẻ thơ, toàn thân chỉ toàn là chất liệu mầu xanh có quần áo là một bộ ôm sát người, với nón hơi nhú đôi tai dài và nhọn.

TÂM THỨC CÂY
Cotswolds
18 August, 1925

Như mọi thú vật trong lúc tái sinh là một cá nhân riêng biệt dù chỉ tạm thời, mỗi cái cây cũng vậy, trong đời của nó cây phát triển tính chất riêng của mình. Những cây du già cỗi to lớn trong thung lũng này đã phát triển cá tính rõ rệt, và có được một ý thức về sự hiện hữu, một khái niệm mơ hồ về chính mình.
Tiếp xúc với cảm giác về cá tính này cho ra một cảm xúc lạ lùng như thể ta đang đứng trước những thực thể bất động khổng lồ, mỗi cái biết rằng mình khác biệt với nhóm còn lại, mỗi cái có một bầu không khí nhất định và cho ra một ảnh hưởng rõ ràng. Khi vượt qua thân xác vật chất của cây, ta gặp ngay một cá tính và chạm được với tâm thức của nó. Như mới rồi một luồng gió nhẹ lay động khu vườn làm lá xào xạc và khiến khu rừng vang lên êm ái từ đầu tới cuối rừng, tâm thức cây biết được chuyện ấy.
Khi đi vào đời sống nội tâm của cây, tôi có được những cảm xúc hoàn toàn mới lạ; nó giống như tới một nước không quen, thấy sắc dân khác hẳn và làm quen với những tiêu chuẩn giá trị mới. Tôi cảm thấy rằng những ‘người’ này rất nhậy cảm với sự thay đổi trong nhiên thiên, thay đổi của thời tiết và bốn mùa, và rõ rệt là chúng có đủ tâm thức để nhận biết điều ấy. Người ta có thể nói là chúng cảm được và nhận ra gió chiều, nói với mình trong tâm tưởng: ‘A, gió chiều tới rồi, thích làm sao khi nó làm cành tôi lay động, thân tôi rung nhẹ và lá tôi xào xạc’. Tôi có cảm tưởng rất mạnh mẽ rằng nó nhìn ra những cây bên cạnh và nói, ‘Gió lại tới nữa kìa.’
Tâm thức này lan khắp mọi cành và mọi rễ của cây, tuy điểm chính hình như nằm ở thân cây. Thấy là nó nhậy cảm đối với mỗi đầu cành, thành ra mọi chuyển động của lá và những cành nhỏ ngoại biên gửi đi một rung động theo hệ thần kinh sơ khai, như màng lưới thuộc thể tình cảm, về đến tâm thức ở giữa. Trong trường hợp cây du, cảm tưởng cho thấy nó mang nam tính và tôi hay nghĩ tới tinh linh như là chàng cây. Tiếp xúc gần hơn nữa làm lộ ra sự hiện diện của một ý thức thúc đẩy bên trong muốn tăng trưởng, điều mà tôi có thể dịch sát nhất là ý muốn vươn mình; làm như cái ý chí thiêng liêng, hằng muốn vươn lên trên đường tiến hóa, biểu lộ như thế trong tâm thức cây, khiến ‘chàng cây’ cảm được sự thúc giục muốn vươn lên và lên nữa ra ngoài, khỏi đầu cành của thân xác mình; cảm tưởng ấy gần giống như khi ta thọc tay sâu vào bao tay, chỉ khác là ở đây có hàng ngàn ngón thay vì chỉ có năm. Đó là vùng tâm thức lạ lùng so với tâm tưởng con người, một vùng mà rừng là thành phố với người sống kế nhau và về một mặt, cả khối được đoàn kết, là một phần của tâm thức rộng hơn nữa, của đấng cao cả mà con cái là tất cả những cây.
Chàng cây là tổng hợp phần tâm thức ở cõi tình cảm của cây, và chàng dùng thể sinh lực mình như là dụng cụ để tiếp nhận cảm xúc ở cõi vật chất. Nhìn theo khía cạnh hồn khóm, mỗi cây trong đó được thấy là một cá nhân riêng biệt đang tái sinh, khác nhau trong sự phát triển phần lớn do tuổi tác. Chúng ta dùng chữ ‘cá nhân’ một cách tương đối thôi, tuy càng lại gần tôi càng nhận thức là với những cây cao tuổi, già lão, tính này càng mạnh, và cũng có nét tương tự như tình cảm gia đình ở mức phát triển của chúng, một tâm thức liên hệ trong nhóm. Cái cảm giác mạnh mẽ nhất chúng có thể có sinh ra từ việc sinh lực tuôn tràn trong thể sinh lực của cây; điều này xẩy ra không ngừng và gia tăng dần, mang lại cảm giác vui sướng.
Mỗi cây có một quả tim, một bộ phận tương tự như lá lách, và trung tâm giao cảm thần kinh hợp lại mà qua đó sinh lực tuôn vào rồi được phân phối đi khắp thân cây. Trong lúc ngồi dựa vào một thân cây du to lớn, mạnh mẽ, tôi đi sâu phần nào vào  tâm thức cây, sự rung động liên tục của sức sống trong cây lộ ra thật rõ, trọn thân người tôi rung theo nhịp ấy và cả thể sinh lực cũng như thể tình cảm bị ảnh hưởng mạnh mẽ, đó là cảm giác lan rộng, nhịp nhàng, có hơi thoảng giống như nhịp đập tim đều đặn. Tôi nghe được tiếng đập ở cõi tình cảm, nó cho tôi cảm tưởng như một nốt nhạc được hát lên, một âm vang tròn đều phát xuất từ chính nơi sâu thắm của thân cây và vang dội ra khắp cành. Khi có một làn gió thổi tới, sự rung động thay đổi liên tục tùy theo sức gió và hướng gió. Lúc này cơn gió rất nhẹ khi có khi không, và âm của nốt chỉ thay đổi rất ít trên dưới nốt ấy một chút.
Kinh nghiệm này làm khơi dậy những cảm giác lạ lùng, hay đúng hơn là ‘kỷ niệm' trong tôi, giống như nó gợi nhớ lại thời kỳ xa xưa nào lắm tôi đã từng ở trong điều kiện tương tự; thật vậy cảm xúc nào cũng quen thuộc một cách kỳ lạ, càng trở nên rõ hơn, rồi khi tôi dần dần quen, với sự rung động và đồng hóa mình dễ dàng với chúng, tôi gần như thấy rằng cây trong tâm thức chúng cũng ý thức lờ mờ về những ai thương yêu và quý chuộng mình.
Tư tưởng mới mẻ sinh ra từ kinh nghiệm này là cây không phải chỉ để cho gỗ, là loài thảo mộc hữu ích cho ta, làm đẹp khung cảnh, chúng là sinh vật sống động và rất đỗi nhậy cảm. Chúng đang tới đích trong chặng tiến hóa của loài ấy, gần tới giới hạn cuối cùng của loài.
Khu rừng trong thung lũng này gồm những bạn bè vui sống với nhau, dường như tôi nghe được tiếng thì thào của vô số giọng, cây này nói với cây kia giữa cảnh trời thanh khiết, tươi mát và trong sạch của thế giới cây.
Tôi cảm nhận một niềm hạnh phúc sâu xa và sự mãn nguyện, khiến tôi nghĩ rằng con người cũng nên gắng tập cho mình có nhiều hơn sức mạnh dạn dầy và vững chãi, cũng như sự quân bình nhịp nhàng vốn là đặc tính của đa số cây.